Đề xuất cơ chế đặc thù cho TP HCM để khôi phục kinh tế: Cho phép nâng trần nợ công, tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách lên 23%
Báo cáo "Kiến tạo động lực phục hồi kinh tế TP HCM giai đoạn COVID-19 lần 4", do nhóm nghiên cứu Đại học Kinh tế - Luật (UEL) - Đại học Quốc gia TP HCM công bố mới đây, nhận định kinh tế TP HCM đã chịu tổn thất nghiêm trọng trong thời gian giãn cách, khiến cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng; lao động, việc làm suy giảm mạnh; doanh nghiệp kiệt quệ tài chính.
Cần đặt mục tiêu ưu tiên tốc độ hỗ trợ, chấp nhận một sự sai lệch nhất định
Nhóm nghiên cứu đã đưa ra ba kịch bản ước tính tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách năm 2021 của TP HCM, ước tính cho thấy khả năng tăng trưởng suy giảm và cân đối ngân sách sẽ vô cùng căng thẳng.
"Nếu không có sự can thiệp kịp thời của nhà nước, tỷ lệ thất nghiệp của TP HCM và khu vực phía Nam sẽ tăng mạnh trong thời gian tới và đánh giá rằng tốc độ phục hồi kinh tế của TP HCM phụ thuộc lớn vào tốc độ, quy mô của động lực hỗ trợ từ Chính phủ và TP HCM", nghiên cứu cho biết.
Báo cáo nghiên cứu dựa trên hai giả định:
Thứ nhất là TP HCM và các tỉnh giáp ranh cơ bản kiểm soát được COVID-19 lần 4 trong tháng 9 để có thể quay trở lại hoạt động ở điều kiện "bình thường mới" trong tháng 10.
Thứ hai là vắc xin sẽ tiếp tục được triển khai trên diện rộng để đến đầu quý IV đạt độ bao phủ 70% - 80% người dân cư ngụ tại TP HCM và các tỉnh giáp ranh được tiêm đủ hai mũi. Đến tháng 12, cơ bản 70% - 80% người dân Việt Nam được tiêm vắc xin ít nhất một mũi.
Để chính sách hỗ trợ đạt hiệu quả tức thời, nhóm nghiên cứu cho rằng cần đặt mục tiêu ưu tiên tốc độ hỗ trợ, chấp nhận một sự sai lệch nhất định ở đối tượng thụ hưởng.
Các gói hỗ trợ cần tập trung vào hai hướng. Thứ nhất, hỗ trợ trực tiếp cho tổng cầu bằng cách cắt giảm thuế, tăng chi đầu tư, chi hỗ trợ việc làm, chi hỗ trợ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, đảm bảo an sinh xã hội. Thứ hai, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, hạn chế đóng cửa/phá sản, chia sẻ chi phí, bảo lãnh và cho vay, cung cấp dòng vốn chi phí thấp.
Đề xuất áp dụng cơ chế đặc thù cho TP HCM
Để kiến tạo phục hồi kinh tế TP HCM, nhóm nghiên cứu đề xuất Quốc hội, Chính phủ áp dụng cơ chế đặc thù để kiến tạo động lực cho TP HCM nhằm giúp quá trình hồi phục kinh tế của TP HCM diễn ra nhanh nhất có thể, tạo tác động lan tỏa kéo theo tăng trưởng của vùng kinh tế động lực phía Nam và cả nước.
Giải pháp phát hành trái phiếu chính phủ trong điều kiện lãi suất trái phiếu chính phủ đang ở mức thấp và chuyển giao nguồn vốn này cho TP HCM sử dụng với trách nhiệm trả lãi vay là có tính khả thi và đem lại hiệu quả đầu tư.
Ngoài ra, từ năm ngân sách 2022, kiến nghị Trung ương cho phép tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách TP HCM từ 18% lên 23% và cho phép nâng trần nợ công của TP HCM để có thể phát hành trái phiếu chính quyền đô thị, giúp TP HCM có đủ nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Song song với chính sách từ trung ương, TP HCM cần thiết phải kiến tạo động lực thông qua gói hỗ trợ tái tạo việc với đề xuất hỗ trợ 25% lương tối thiểu vùng cho doanh nghiệp duy trì đạt ngưỡng tỷ lệ lao động, thiết lập chương trình kích cầu mới trên cơ sở chương trình hỗ trợ lãi suất đã rất thành công từ nhiều năm qua.
Đồng thời, xây dựng chợ đầu mối trực tuyến, nâng cao năng lực hệ thống y tế, chú trọng đến tốc độ chuyển đổi số và gia tăng sự bền vững trong liên kết vùng cùng với các chính sách hỗ trợ mang tính tức thời cho cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp bị tổn thương nặng trong giai đoạn giãn cách. Quy mô gói hỗ trợ của TP HCM khoảng 22.300 tỷ đồng tương đương 1,7% GRDP của TP HCM.
Trên phạm vi cả nước, nhóm nghiên cứu đề xuất các chính sách về an sinh xã hội, hỗ trợ tái tạo việc làm, chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa với những phương án khác nhau, có quy mô tối thiểu 120.000 tỷ đồng và tối đa lên đến 250.000 tỷ đồng (4% GDP).
Nhóm nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò điều phối chính sách phục hồi kinh tế phải gắn đồng bộ với các chính sách khác như an sinh xã hội, y tế, phòng chống dịch, tiêm vắc-xin, lao động - việc làm, giao thông vận tải, giáo dục - đào tạo,… để đạt được sự thống nhất xuyên suốt. Bởi, bảo đảm được tính nhất quán của các chính sách thậm chí còn có tầm quan trọng hơn so với các chính sách hỗ trợ khẩn cấp.