|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Việt Nam cần làm gì để đạt mục tiêu 10 tỷ USD sản lượng tôm vào năm 2025?

07:00 | 03/09/2018
Chia sẻ
Sản lượng tôm cần giữ mức tăng trưởng 12,7%/năm để đạt mục tiêu 10 tỷ USD vào năm 2025. Trong quý I/2018, VASEP cho hay tăng trưởng ở mức 13,8%. Tuy nhiên những quốc gia nuôi tôm hàng đầu vẫn chưa đạt được mức 12% mỗi năm vào giai đoạn 2014 – 2018.

Việt Nam có nhiều tiềm năng tăng trưởng đầu ra tôm nuôi khi đang theo đuổi giá trị xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 2025, mặc dù Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Khối liên hiệp thịnh vượng chung (CSIRO) vừa đặt ra nghi vấn về tính khả thi trong việc theo đuổi tăng trưởng nhanh.

Ban quản lý Ngư nghiệp, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vừa đặt mục tiêu 10 tỷ USD trong kế hoạch phát triển quốc gia về nuôi tôm, công bố vào năm 2017. Mục tiêu 10 tỷ USD sẽ là bước nhảy đáng kể từ 3,85 tỷ USD năm 2017, và vẫn luôn được đặt ngang bằng với mục tiêu sản xuất tham vọng 1,2 triệu tấn.

Bộ cũng ủy thác cho CSIRO tư vấn cách tốt nhất để đạt được mục tiêu này, theo ông Hoàng Tùng, người làm việc tại CSIRO. Hiện Việt Nam có khoảng 700.000 ha diện tích nuôi tôm, và khả năng tăng lên 800.000 hoặc cao hơn vào năm 2025, do thay đổi khí hậu và xâm nhập mặn, ông Tùng cho hay.

viet nam can lam gi de dat muc tieu 10 ty usd san luong tom vao nam 2025
Tôm sú xuất khẩu của một doanh nghiệp lớn tại Việt Nam. (Ảnh: TV)

Theo ông Tùng, con số 683.000 tấn sản phẩm tôm nuôi năm 2017 cao hơn đáng kể so với ước tính, ví dụ, tại Hội nghị Thị trường Thủy Sản Toàn cầu (GSMC) ở Mỹ hồi đầu năm nay nơi đưa ra con số 415.000 tấn cho năm 2017. Tuy nhiên, ông không phải là diễn giả phát biểu duy nhất nói rằng sản lượng Việt Nam ở khoảng 700.000 tấn tại sự kiện Vietfish 2018 vừa qua.

Một nhà quản lý tại một hãng giao dịch tôm khẳng định con số sản lượng do cơ quan chức năng Việt Nam đưa ra cho năm 2017 ở khoảng 684.000 tấn, và 2018 là khoảng 720.000 tấn. Tuy nhiên, một nhà điều hành nhà sản xuất lớn ở Việt Nam nói rằng sản lượng 2017 theo ông là khoảng 500.000 tấn.

Ông Hồ Quốc Lực - cựu chủ tịch của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), và hiện là Chủ tịch hiện Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta (FIMEX) nhấn mạnh rằng, có tiềm năng to lớn để tăng giá trị xuất khẩu của Việt Nam, cả thông qua việc mở rộng diện tích nuôi trồng và tăng giá trị sản phẩm.

Then chốt của mục tiêu tham vọng này là sự hỗ trợ của Chính phủ về cơ sở hạ tầng, ông Lực cho hay. Phần lớn nông thôn Việt Nam thiếu nguồn cung điện ổn định, và không có điện thì các trại nuôi không thể tăng cường sản xuất – một yêu cầu để tăng năng suất trên diện tích nuôi trồng có sẵn.

Trên tất cả, hệ thống tưới tiêu và mạng lưới đường bộ cần được đầu tư để ổn định tình hình, và cho phép vận chuyển quy mô lớn hơn các sản phẩm tôm, ông Lực nói.

Ông cũng chỉ ra tỷ lệ sản xuất “quy mô nhỏ” và “tự phát” ở Việt Nam. Khoảng 80% tôm được nuôi bởi những hộ nhỏ lẻ, một số trong đó dường như không được nhà nước quản lý, và kinh doanh “không chính thức”, sử dụng thuốc chợ đen và về tổng quan mà nói không tạo ra được sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.

CEO Tạ Minh Thiện của Công ty Thủy sản Âu Vững nói với Undercurrent News tại Vietfish rằng, việc các nhà máy chế biến đang kết nối nhiều hơn tới những người nông dân, nhằm kiểm soát và đảm bảo tính ổn định và đều đặn của nguồn cung cấp, là cốt yếu trong việc cạnh tranh trên thị trường tôm quốc tế. Công ty của ông đang tạo ra quỹ hợp tác của các nông dân, được kì vọng sẽ có được chứng nhận của Hội đồng Quản lý Nuôi trồng Thủy sản trong mùa hè này.

Các yếu tố đầu vào nuôi trồng chất lượng, bao gồm thức ăn, nguồn nước và giống, cũng đều là những thách thức cho ngành tôm, ông Lực nói. Ông cho biết, Việt Nam vẫn luôn nghiên cứu chương trình con giống suốt 20 năm qua, nhưng hiệu quả chưa đáng kể (mặc dù ông cũng công nhân thành tích vượt bậc gần đây của Công ty Cổ phần Thủy sản Việt Úc trong lĩnh vực này).

Thâm canh hay không?

Ông Hoàng cho rằng, mục tiêu xuất khẩu tôm 10 tỷ USD là “thực tế”, và chính phủ có kế hoạch “ấn tượng”, khi hoàn toàn nhìn vào mọi phần của chuỗi giá trị. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng có nhiều việc phải làm để nhận ra đâu chính xác là nơi tăng trưởng, và mức độ đầu tư bao nhiêu.

Hiện theo ông, mô hình thâm canh hoặc “siêu thâm canh” vẫn hạn chế ở các công ty sản xuất chuyên nghiệp như Việt Úc – chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản lượng tôm của Việt Nam. “Việc mở rộng được xem là không cần thiết”, ông nói. “Một nông dân có thể nuôi sốg gia đình của mình với một ruộng tôm thẻ rộng 2 hecta. Và họ không có ý định nâng cấp”.

Sản lượng cần phải giữ mức tăng trưởng 12,7%/năm để đạt được mục tiêu 10 tỷ USD năm 2025, ông nói. Trong quý I/2018, VASEP báo cáo tăng trưởng ở mức 13,8%. Tuy nhiên, theo ông Hoàng, những quốc gia nuôi tôm hàng đầu vẫn chưa đạt được mức 12% mỗi năm trong giai đoạn 2014 – 2018.

Sản lượng 800.000 tấn đến năm 2020 là có thể đạt được nhưng ông Hoàng cũng hoài nghi về mục tiêu 1,2 triệu tấn đến năm 2025. Ông Hoàng cho biết thêm, tăng trưởng sản lượng quá nhanh đến mức 1,2 triệu tấn làm tăng rủi ro về những vấn đề sinh học. Một vài tính toán (dường như bị đơn giản quá) cho thấy giá trị tôm Việt Nam sẽ phải tăng trưởng trong giai đoạn giữa.

Năm 2016, giá trị xuất khẩu của Việt Nam là 3,3 tỷ USD. Dữ liệu của ông Hoàng đưa ra với sản lượng năm đó khoảng 650.000 tấn, nghĩa là một giá trị rất thô (thực tế không phải tất cả sản lượng xuất khẩu đều được ghi nhận lại) ở mức 5.077 USD/tấn.

viet nam can lam gi de dat muc tieu 10 ty usd san luong tom vao nam 2025
Diễn biến giá tôm sú Việt Nam loại 40 con/kg trong tính đến tuần 29 của năm 2018. Nguồn: undercurrentnews

Trong năm 2017, dữ liệu của ông cho thấy, Việt Nam đạt sản lượng 683.000 tấn, giá trị xuất khẩu là 3,85 tỷ USD; tương đương mức giá xuất khẩu toàn bộ tôm trung bình là 5.637 USD/tấn.

Mở rộng vấn đề này, nếu Việt Nam sản xuất 1,2 triệu tấn tôm năm 2025, và đạt giá trị xuất khẩu 10 tỷ USD, con số này sẽ là 8.300 USD/tấn. (Để so sánh, sử dụng các phân tích từ GSMC, trong năm 2017 Ecuador đạt 5.757 USD/tấn, và Thái Lan chỉ là 3.180 USD/tấn. Những con số này đều là giá trị và khối lượng xuất khẩu, thay vì khối lượng sản xuất).

Ông Hoàng lập luận, Việt Nam không hứng thú trong việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng hàng năm 12,7%, đặc biệt trong năm nay, nguồn cung dường như vượt quá nhu cầu toàn cầu.

Tăng trưởng biên lợi nhuận sản phẩm nên là điều ưu tiên so với tăng sản lượng, ông nói. Đây là nơi mà tôm sú có thể tỏa sáng, ông nói. Có nhiều dư địa tăng trưởng về chất lượng loài này khi nuôi quy mô lớn (một cách tối đa hóa biên lợi nhuận, khi chi phí sản xuất rất thấp); trong năm 2016, tôm sú nuôi theo quy mô lớn đạt khoảng 0,5 tấn/ha/năm, theo số liệu từ CSIRO.

Dự đoán cho thấy hiện tại, con số này sẽ không đạt đến 1 tấn/ha/năm. Tôm sú nuôi theo quy mô lớn có thể đạt được 3 tấn/ha/năm trong năm 2016, trong khi tôm thẻ vượt ngưỡng 4 tấn/ha/năm.

Ông trình bày những trường hợp CSIRO hướng dẫn ở Việt Nam. Đầu tiên là nuôi tôm thẻ quy mô lớn, đạt thu nhập 612 triệu đồng và lợi nhuận 151 triệu đồng ; trường hợp thứ hai là nuôi tôm sú quy mô lớn, đạt thu nhập 62 triệu đồngvàp lợi nhuận 184 triệu đồng.

Với việc Rabobank dự báo giá tôm thẻ thế giới tiếp tục duy trì xu hướng giảm, ông Hoàng cho rằng tập trung vào biên lợi nhuận sẽ quan trọng hơn so với tăng sản lượng đầu ra, và tăng trưởng tỷ lệ nuôi tôm sú là cách tốt nhất để làm việc đó.

Thành Nguyên