Loạt thách thức mà ngành thuỷ sản có thể phải đối mặt trong năm 2025
Năm 2024 đang chứng kiến đà tăng trưởng mạnh mẽ trong ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đang tiến sát tới mốc 10 tỷ USD. Sau khi đạt mức đỉnh 1 tỷ USD trong tháng 10, xuất khẩu thủy sản tháng 11 đạt 924 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2023. Tính lũy kế đến cuối tháng 11, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt gần 9,2 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm trước.
Tôm tiếp tục là sản phẩm dẫn đầu, với mức tăng trưởng ấn tượng 22% trong tháng 11 và dự kiến cán mốc 4 tỷ USD vào cuối năm. Các sản phẩm khác như cá tra, cá ngừ cũng ghi nhận sự tăng trưởng khả quan. VASEP dự báo xuất khẩu cá tra (mặt hàng kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 2) có thể đạt 2 tỷ USD trong năm nay. Đối với mặt hàng cá ngừ cũng được dự báo cán mốc kỷ lục 1 tỷ USD.
“Tính đến cuối năm, với đà tăng trưởng hiện tại, ngành thủy sản Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu đạt 10 tỷ USD xuất khẩu, tăng trưởng 11,5% so với năm 2023.”, VASEP nhận định.
Theo VASEP, Tổng thống Donald Trump tái đắc cử lần hai và sẽ chính thức nhậm chức vào đầu năm sau, dự báo sẽ có những chính sách mới về thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ, trong đó có cá tra.
Với tôn chỉ “Nước Mỹ trên hết” hay “Làm nước Mỹ vĩ đại trở lại” và tập trung vào phát triển kinh tế, các chính sách của chính quyền Trump sẽ có tác động đến Việt Nam, trong đó có ngành xuất khẩu cá tra. Tuy nhiên, tình hình được dự báo sẽ tốt lên, các đơn hàng sẽ tăng lên vì Việt Nam - Mỹ là đối tác chiến lược toàn diện, chưa kể có những chính sách riêng về thuế.
Trước đó, theo kết luận sơ bộ của POR 20, hai doanh nghiệp bị đơn bắt buộc nhận mức thuế chống bán phá giá là 0 USD/kg. 6 doanh nghiệp còn lại đều đủ điều kiện được nhận mức thuế riêng rẽ ở mức 0 USD/kg.
Kết quả sơ bộ trên khá tích cực cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra-basa của Việt Nam khi cả 8 công ty trong cuộc rà soát đều nhận mức thuế 0 USD/kg. Mức thuế trên đã giảm so với mức thuế chính thức của cuộc rà soát POR19 trước đó là từ 0 đến 0,18 USD/kg.
Đối với mặt hàng tôm, nhập khẩu của Mỹ từ top 3 nguồn cung chính đều giảm, điều này làm tăng lo ngại về tình trạng thiếu hụt nguồn cung. Tâm lý thị trường lạc quan hơn, tồn kho giảm và cung-cầu đã cân bằng trở lại, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu tôm dự kiến tăng, đi cùng với giá tôm cải thiện.
Kế hoạch tăng thuế nhập khẩu của chính quyền ông Donald Trump đang thúc đẩy các doanh nghiệp Mỹ đẩy mạnh nhập khẩu để tích trữ hàng trước khi thuế mới có hiệu lực. Điều này mang lại cơ hội cho doanh nghiệp tôm Việt Nam trong các tháng cuối năm.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, ngành thuỷ sản phải đối mặt với những thác thức trong tháng cuối năm nay và đầu năm sau.
Thiếu tôm nguyên liệu
Ngành tôm hiện đang đối mặt với tình trạng thiếu nguyên liệu và giá tăng cao. Từ giữa tháng 8 đến nay, giá tôm thương phẩm ở đồng bằng sông Cửu Long tăng khá mạnh.
Đáng chú ý, giá tôm 50 con/kg tại đầm đã tăng mạnh nhất vào tháng 10, tăng 6%. Cả nhà máy và thương lái đều chuyển hướng tập trung vào tôm cỡ nhỏ do tình trạng khan hiếm và giá tôm cỡ lớn cao.
Giá tăng khá đáng kể, đặc biệt là loại 50 con/kg, tăng khoảng 30% kể từ tuần 35, lên 155.000 đồng (6,1 USD)/kg trong giữa tháng 11. Đây là lần đầu tiên giá loại 50 con chạm mức 6 USD/kg kể từ cuối năm 2021.
Theo VASEP, nguyên nhân một phần do nguồn cung giảm, trong vụ bà con nuôi ít và dịch bệnh trên tôm.
Sản lượng tôm nuôi giảm do thời tiết khắc nghiệt, chi phi đầu vào nuôi tôm tăng cao. Sản xuất tôm nguyên liệu từ các nước sản xuất chính trên thế giới gặp nhiều vấn đề khiến sản lượng giảm, cũng góp phần đẩy nhu cầu tôm Việt Nam lên cao hơn.
Giá tôm nguyên liệu tăng đột biến trong tháng 10 và tiếp tục tăng cao trong tháng 11. Nguồn cung tôm nguyên liệu năm nay giảm khá nhiều, thời gian mùa vụ ngắn hơn so với năm ngoái.
Lượng tồn kho tại các nhà máy cũng giảm do sự kết hợp giữa nhu cầu xuất khẩu cao và nguồn cung nguyên liệu thấp. Để duy trì hoạt động thu mua và đủ đơn hàng xuất khẩu, các nhà máy chế biến lớn phải tăng giá mua.
Hoạt động thu mua tôm sú nguyên liệu của các nhà máy chế biến đã giảm đáng kể vào tháng 10 do nguồn cung hạn chế.
Trong một bài viết chia sẻ trên VASEP, ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT CTCP Thực phẩm Sao Ta cho biết thêm chất lượng con giống không còn ở mức độ cao nhất và môi trường nuôi tôm đang xấu đi, nhất là nguồn nước. Trong vòng một tháng sau khi thả nuôi, ao tôm đã bị nhiễm bệnh khá phổ biến, bệnh EHP và bước tiếp theo là phân trắng.
“Tình hình này, tôm nguyên liệu sẽ còn thiếu hụt đến hết quý I năm sau. Trong khoảng thời gian này, các doanh nghiệp chế biến đứng trước thách thức lớn, bởi phải mua tôm nguyên liệu giá cao nhưng giá tôm thành phẩm tiêu thụ phải cạnh tranh gay gắt với tôm giá rẻ hơn từ nhiều nước, dẫn đến giảm sụt hiệu quả sản xuất kinh doanh”, ông Lực nhận định.
Áp lực cạnh tranh đè lên cá tra ngày một lớn
Còn với mặt hàng cá tra, sức cạnh tranh đối với các sản phẩm cá thị trắng khác như cá rô phi, cá lóc, cá minh thái,…ngày càng lớn.
Số liệu của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) cho thấy, trong vòng hơn một thập kỷ, kể từ năm 2012, phile cá tuyết cod đông lạnh mã HS 030471 luôn là sản phẩm được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới, chiếm khoảng 13% thị phần cá thịt trắng. Cá tuyết cod được người tiêu dùng ưa chuộng, có giá trị thương hiệu cao, chất lượng thịt tốt, giá trị dinh dưỡng dồi dào, do đó đây là loài có vị trí cao cấp trong ẩm thực nhiều quốc gia.
Đứng sau đó lần lượt là các sản phẩm cá tuyết đông lạnh mã HS 030363, phile cá minh thái Alaska đông lạnh và phile cá tra đông lạnh mã HS 030462. Cá minh thái là một lựa chọn thay thế tốt cho cá tuyết với vị ngọt, ít béo, giá cả phải chăng và ổn định hơn so với các loài cá khác và thường được sử dụng để chế biến các sản phẩm cơ bản như cá viên, cá phile.
Ngoài ra, cá rô phi cũng là một trong những “đối thủ nặng ký” của cá tra. Mặc dù Việt Nam có nuôi và xuất khẩu các sản phẩm cá rô phi, tuy nhiên Trung Quốc mới là nguồn cung lớn nhất loài cá thịt trắng này cho thế giới, đồng thời là đối thủ lớn nhất trong cùng khu vực cạnh tranh với cá tra.
Mỹ là một trong hai thị trường quan trọng nhất của xuất khẩu cá tra Việt Nam, tuy nhiên cá rô phi (chủ yếu đến từ Trung Quốc) thường có vị thế và sức ảnh hưởng lớn hơn so với cá tra tại thị trường này. Cá rô phi giàu protein và các axit amin thiết yếu, giá thành của cá rô phi thường khá “dễ chịu” trên thị trường. Đặc biệt, sản phẩm phile cá rô phi đông lạnh là sản phẩm được ưa thích tại Mỹ.
Ngoài ra, nhiều nước cũng đang bắt đầu nuôi cá tra. Sản phẩm cá tra từng được xem là ngành hàng độc quyền của nước ta, tuy nhiên không còn “1 mình một chợ”, nhiều quốc gia cũng bắt tay vào nuôi cá tra phục vụ nội địa và giảm nhập khẩu từ thế giới như Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Trung Quốc. Các nước này đều có lợi thế về nguồn nguyên liệu và chi phí sản xuất, tạo ra áp lực không nhỏ lên ngành cá tra Việt Nam.
Cá tra Việt Nam chiếm 42% sản lượng cá tra toàn cầu, còn các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh chiếm từ 15-21%. Cá tra Ấn Độ ngày càng tăng song kích cỡ cá rất nhỏ, chủ yếu cung cấp trong nước. Riêng Indonesia, sản lượng không cao nhưng đã xuất khẩu sang thị trường Trung Đông với nhãn hàng riêng và đang tạo uy tín.
Trung Quốc là điểm đến lớn nhất của cá tra Việt Nam. Tuy nhiên kể từ năm 2023, Hainan Xiangtai Fishery, một trong những nhà xuất khẩu cá rô phi lớn nhất của Trung Quốc tuyên bố đang tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng cá tra để đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa tăng cao.
Doanh nghiệp này xây dựng trại sản xuất giống, trung tâm nghiên cứu, dây chuyền chế biến, gia tăng hợp tác, đẩy mạnh truyền thông, phát triển các dịch vụ và đa dạng hóa danh mục sản phẩm theo kênh tiêu dùng khác nhau là các nhiệm vụ mà công ty này đã, đang và sẽ làm để giành thị phần trong chuỗi cung ứng cá tra.
Trung Quốc đã nuôi cá tra hơn 7 năm qua, duy trì sản lượng mỗi năm khoảng 1,4 triệu tấn, chủ yếu phục vụ trong nước. Tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là quốc gia này sẽ giảm nhập khẩu.
Thiếu nguyên liệu cá ngừ
Đối với mặt hàng cá ngừ, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gặp nhiều khó khăn vì thiếu nguyên liệu có xuất xứ thuần tuý. Nguyên nhân là nhiều tàu cá tại 3 tỉnh trọng điểm về đánh bắt cá ngừ đang phải nằm bờ vì vướng quy định về kích thước cá ngừ vằn được phép đánh bắt (chiều dài nhỏ nhất cho phép đánh bắt là 500mm).
Theo quy định này, nếu doanh nghiệp chế biến xuất khẩu mua cá ngừ vằn nhỏ hơn kích cỡ được khai thác thì không được cấp giấy xác nhận nguyên liệu hải sản khai thác để phục vụ xuất khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp hiện không thu mua cá ngừ vằn loại nhỏ như trước nữa nên việc tiêu thụ cá ngừ vằn chậm, kéo theo giá cá giảm.
Ở nhiều địa phương, giá cá ngừ vằn đã tụt xuống còn 19.000 – 20.000 đồng/kg. Với mức giá này, nhiều tàu cá mặc dù mỗi chuyến biển đạt sản lượng nhưng do chi phí lên đến 200-300 triệu đồng, việc giá cá giảm khiến lợi nhuận các chủ tàu thu về gần như không còn.
Trong khi đó, chi phí cho mỗi chuyến biển, công lao động tăng cao khiến các chủ tàu gặp nhiều khó khăn. Do đánh bắt không có lãi nên chuyến biển vừa qua, nhiều ngư dân đã cho tàu lưới cản nằm bờ. Mà việc không thể vươn khơi đang khiến cho các ngừ dân lâm vào tình cảnh mất thu nhập, cuộc sống gia đình bị ảnh hưởng đáng kể.
Cước tàu có thể tăng trở lại
Một thách thức khác có thể đè nặng lên các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp thuỷ sản nói riêng đó là cước tàu có thể tăng cao sau khi ông Trump chính thức tiếp quản Nhà Trắng.
Chiến thắng của ông Donald Trump được dự báo sẽ tác động mạnh đến cước vận tải biển trên toàn cầu khi trước đó ông Trump đã đề xuất áp dụng mức thuế quan từ 10% đến 20% đối với hầu hết hàng hóa nhập từ các nước và mức thuế tối thiểu là 60% đối với tất cả hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Hoàng Giang, Trưởng phòng Phân tích nhóm Ngành Vận tải - Logistics - Hàng Không, Trung tâm Phân tích & Tư vấn đầu tư SSI (SSI Research), cho rằng khi mức thuế được công bố, các nhà nhập khẩu Mỹ có thể nhanh chóng nhập càng nhiều hàng càng tốt, trước khi sắc lệnh có hiệu lực. Nhu cầu nhập khẩu tăng cao và dồn dập, dẫn đến cước vận tải biển có thể sẽ tăng mạnh trong năm 2025.
Chuyên gia này cho biết trên thực tế, điều này cũng đã từng xảy ra vào năm 2018 khi ông Trump công bố một loạt chính sách thuế áp dụng với hàng hoá nhập khẩu, đặc biệt là từ Trung Quốc.
Dữ liệu từ Freightos, nền tảng trung gian đặt chỗ vận tải đường biển, cho thấy sau khi ông Trump công bố loạt chính sách thuế quan vào tháng 7/2018, cước vận tải container tăng gần gấp đôi so với đầu năm chỉ trong vòng 4 tháng, sau đó tạo đỉnh vào giữa tháng 11. Nguyên nhân là nhiều nhà nhập khẩu “chạy đua” nhập hàng trước khi mức thuế có hiệu lực là tháng 1/2019.