Thặng dư thương mại: lo nhiều hơn mừng

Lũy kế 10 tháng đầu năm 2019, cán cân thương mại thặng dư tới 9 tỉ đô la Mỹ, cao hơn nhiều so với con số 7,2 tỉ đô la Mỹ của cùng kỳ năm 2018. Ảnh minh họa Thành Hoa.
Mức thặng dư kỷ lục
Theo Tổng cục Hải quan, trong tháng 10, cán cân thương mại Việt Nam thặng dư 1,86 tỉ đô la Mỹ. Đây là kết quả bất ngờ đối với các chuyên gia kinh tế, bởi lẽ thặng dư thương mại thường sẽ ở mức cao trong tháng 8 và 9 hàng năm - thời điểm Samsung ra mắt sản phẩm mới.
Do vậy, mức thặng dư gần 2 tỉ đô la Mỹ trong tháng 10 được xem là một diễn biến lạ thường so với các năm trước.
Lũy kế 10 tháng đầu năm 2019, cán cân thương mại thặng dư tới 9 tỉ đô la Mỹ, cao hơn nhiều so với con số 7,2 tỉ đô la Mỹ của cùng kỳ năm 2018. Đây là mức thặng dư cao kỷ lục mà Việt Nam ghi nhận được từ trước đến nay. Kết quả này đóng góp một phần quan trọng giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua được khoảng 15 tỉ đô la Mỹ từ đầu năm đến nay.
Đồng thời, diễn biến này được xem là rất đáng chú ý khi mà tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2019 được dự báo chỉ đạt khoảng 8-10%, thấp hơn nhiều so với con số 13% của năm 2018.
Bên cạnh đó là bối cảnh cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa có hồi kết cũng như chủ nghĩa bảo hộ thương mại có xu hướng lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu.
Động lực chính đến từ đâu?
Có lẽ lúc này đang có nhiều câu hỏi được đặt ra về kết quả mà Việt Nam đạt được trong 10 tháng đầu năm 2019. Chẳng hạn, đâu là nguyên nhân chính giúp Việt Nam có được mức thặng dư cao như vậy?
Bên cạnh xuất siêu của khu vực doanh nghiệp FDI thì sự đóng của các doanh nghiệp trong nước như thế nào? Sản phẩm cụ thể nào mang lại thặng dư nhiều nhất?
Đây có phải là hệ quả của việc các doanh nghiệp tại Trung Quốc dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam hay không? Hay liệu có khả năng hàng hóa từ các nước khác gắn mác Việt Nam để xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ, châu Âu hay không?
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng khu vực doanh nghiệp FDI vẫn là động lực chính giúp Việt Nam đạt mức thặng dư cao kỷ lục trên. Theo đó, mặc dù cán cân xuất nhập khẩu hàng hóa chỉ tăng trưởng 4% nhưng thặng dư thương mại của khu vực này đạt mức 28,5 tỉ đô la Mỹ trong 10 tháng, tăng 10,6% so với cùng kỳ của năm 2018.
Con số này chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo, điển hình là lĩnh vực sản xuất điện thoại, sản phẩm điện tử và linh kiện.
Việc Chính phủ Ấn Độ tăng thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm và linh kiện điện tử nhằm thực hiện chiến lược “Make in India” đã buộc Samsung phải hạn chế sản xuất các dòng điện thoại cao cấp và tạm dừng sản xuất một số mặt hàng như màn hình tivi cũng như điện thoại tại nước này và chuyển sang Việt Nam từ đầu năm 2019.
Nhờ vậy mà xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI vẫn duy trì được đà tăng trưởng bất chấp sự suy giảm về thương mại trên phạm vi toàn cầu. Do đó, việc đóng góp vào cán cân thương mại của Việt Nam từ sự chuyển dịch sản xuất của các doanh nghiệp khỏi Trung Quốc là chưa nhiều.
Doanh nghiệp nào của Việt Nam đã mang về giá trị xuất khẩu tới 1,9 tỉ đô la Mỹ trong lĩnh vực điện thoại và tới 3 tỉ đô la Mỹ trong lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử?
Liệu đó có phải là Vinsmart, Bphone, Viettel hay FPT? Câu trả lời là có, nhưng với giá trị hàng tỉ đô la chỉ trong thời gian ngắn là điều không thể xảy ra!
Trong khi giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong 10 tháng chỉ tăng 4,9% thì con số này của khu vực trong nước lên tới 16,5% so với cùng kỳ của năm 2018. Con số này xem qua thì rất đáng mừng nhưng xem kỹ lại thấy đáng lo.
Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm và hải sản (bao gồm hải sản, rau quả, hạt điều, chè, tiêu, gạo và cao su) chỉ đạt 19 tỉ đô la Mỹ, giảm 6,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Nguyên nhân chính là thị trường truyền thống và chủ lực của Việt Nam là Trung Quốc đã bất ngờ chuyển sang giao dịch chính ngạch toàn bộ thay vì vừa tiểu ngạch và chính ngạch như các năm trước đây.
Vậy động lực nào giúp cho giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng tới con số 16,5%? Đó chính là các nhóm hàng như đá quý, điện thoại và các sản phẩm điện tử.
Nếu như việc xuất khẩu đá quý, chủ yếu là vàng nguyên liệu, trong bối cảnh giá vàng thế giới cao hơn trong nước hoàn toàn dễ hiểu thì việc các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu điện thoại mang lại giá trị tới 1,9 tỉ đô la Mỹ hay sản phẩm điện tử tới 3 tỉ đô la Mỹ, lần lượt tăng trưởng tới 1.807% và 238% là hoàn toàn bất ngờ và rất khó hiểu.
Doanh nghiệp nào của Việt Nam đã mang về giá trị xuất khẩu 1,9 tỉ đô la Mỹ trong lĩnh vực điện thoại và 3 tỉ đô la Mỹ trong lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử? Liệu đó có phải là Vinsmart, Bphone, Viettel hay FPT? Câu trả lời là có, nhưng với giá trị hàng tỉ đô la chỉ trong thời gian ngắn là điều không thể xảy ra!
Xu hướng xuất siêu có bền vững?
Ngoại trừ năm 2015 thì từ năm 2012 đến nay cán cân thương mại của Việt Nam đều thặng dư. Đây được xem là một thành quả đáng mừng, góp phần giúp Việt Nam duy trì được trạng thái thặng dư của cán cân vãng lai (current account - một tiêu chí hàng đầu để đo lường sức khỏe kinh tế vĩ mô của một quốc gia).
Câu hỏi đặt ra là liệu xu hướng xuất siêu của Việt Nam có bền vững hay không, hay cụ thể là có tiếp tục thặng dư trong năm 2020 và 2021 hay không?
Câu trả lời theo quan điểm người viết là có, nhưng chắc chắn thì không. Điều đó đồng nghĩa với câu trả lời rằng xu hướng xuất siêu của Việt Nam là chưa thật bền vững vào thời điểm hiện tại. Nguyên nhân là do thặng dư thương mại của Việt Nam hoàn toàn đến từ số ít doanh nghiệp thuộc khu vực FDI.
Trong khi đó, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong nước hay tỷ lệ nội địa hóa vẫn còn rất thấp. Bên cạnh đó, hiện tượng “xuất khẩu nhờ” thương hiệu của Việt Nam chắc chắn đang diễn ra khi số liệu cho thấy xuất khẩu trong lĩnh vực điện thoại, sản phẩm điện tử của các doanh nghiệp trong nước tăng trưởng đột biến.
Đây là rủi ro rất lớn cho các doanh nghiệp trong nước nếu như cơ quan quản lý không mạnh tay xử lý trong thời gian tới. Theo đó, Việt Nam có thể đối mặt với các vụ kiện và trừng phạt về thương mại từ các nước và khu vực đối tác trên thế giới.