Những yếu tố định hình nền kinh tế thế giới năm 2023
Trong bài viết đăng tải trên tờ ABC Australia, nhà báo chuyên về kinh tế Ian Verrender nhận định, sau gần nửa thế kỷ lạm phát và lãi suất luôn ở mức thấp, thế giới đột nhiên bị “rung lắc” và “các bánh xe lãi suất bắt đầu lăn tới một chu kỳ thắt chặt tiền tệ mới”.
Tác giả nhấn mạnh 50 năm vừa qua là thời kỳ mở ra sự tăng trưởng vượt bậc, hợp tác và thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, đi kèm với chúng là các khoản nợ chồng chất và bất bình đẳng gia tăng.
Vào đầu năm nay, hầu hết các chuyên gia kinh tế, các nhà điều hành chính sách vĩ mô đều tin rằng lạm phát tăng đột biến sẽ chỉ xuất hiện trong quãng thời gian ngắn - một phản ứng nhất thời sau khi thế giới lâm vào tình trạng phong tỏa kéo dài vì đại dịch COVID-19. Nhưng trước thềm năm mới 2023, thế giới dường như không có nhiều sự thay đổi và lạm phát vẫn tiếp tục tăng ở hầu hết các nền kinh tế lớn.
Vậy hình thái kinh tế thế giới trong năm 2023 sẽ như thế nào, theo tác giả có 5 yếu tố gây ảnh hưởng tới hình thái của nền kinh tế thế giới trong năm sau.
Chu kỳ tăng lãi suất có thể sớm kết thúc
Lãi suất hay còn được gọi là giá của đồng tiền hay chi phí của dòng vốn, và bất kể dưới cái tên nào thì lãi suất cũng được nhìn nhận là một trong những lực lượng cơ bản định hình nền kinh tế thế giới. Chỉ trong vòng 7 tháng gần đây, thế giới đã chứng kiến tỷ lệ lãi suất cao chưa từng thấy ở hầu hết các quốc gia phát triển.
Tốc độ tăng chóng mặt của lãi suất có thể chậm đi trong năm tới, nhưng nếu lạm phát trở nên nghiêm trọng hơn, thì việc các ngân hàng trung ương tiếp tục tăng lãi suất sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Lãi suất cao không nhất thiết là một “điều xấu”, nhưng chúng thường được coi là sự báo động, cảnh báo người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu áp lực chi tiêu lớn hơn, các khoản phải trả ngày càng “phình to” và các thị trường trở nên nhạy cảm hơn. Khi lãi suất tăng, thế giới sẽ ngập trong nợ nần nhiều hơn.
Trong suốt 50 năm qua, lãi suất ngày càng giảm và cuối cùng là hình thành mức lãi suất cực thấp (gần bằng 0). Chính hiện tượng này đã bóp méo các quyết định đầu tư, tạo ra bong bóng giá tài sản và khuyến khích nợ chính phủ, nợ doanh nghiệp và hộ gia đình tăng mạnh trên khắp thế giới phát triển.
Cùng với việc bãi bỏ các quy định tài chính, lãi suất thấp đã thúc đẩy tăng trưởng và giúp chuyển đổi cán cân thu nhập từ những người làm công ăn lương sang các nhà đầu tư. Tăng trưởng lợi nhuận dễ dàng vượt xa tiền lương. Khi cơn “sóng thần” lạm phát càn quét thế giới vào thời điểm này của năm ngoái, người lao động ở các quốc gia phát triển đã đòi hỏi “tái cân bằng” thu nhập (tăng lương) để bù đắp cho việc giá cả tăng vọt khiến thu nhập thực tế của họ bị sụt giảm.
Những người gửi tiền tiết kiệm cũng bị ảnh hưởng, với rất ít hoặc gần như không có bất kỳ lợi tức nào nhận được từ các khoản đầu tư an toàn, họ đã buộc phải chịu rủi ro ngày càng tăng khi chuyển đổi sang các loại hình đầu tư mạo hiểm khác. Giờ đây, lãi suất tăng đang khiến thị trường tài chính lao dốc, trực tiếp gây tác động đến các nhà đầu tư cá nhân.
Sang năm 2023, nếu một cuộc suy thoái toàn cầu mới xuất hiện, lãi suất có thể sẽ ổn định hơn và thậm chí giảm xuống, trong cả trường hợp lạm phát vẫn nằm trên mức mục tiêu của các ngân hàng trung ương. Nhưng, đó có thể sẽ chỉ là hiện tượng tạm thời.
Khi kinh tế Trung Quốc cũng chịu áp lực lạm phát
Trong các năm vừa qua, Trung Quốc đã dần vươn lên vị trí tốp đầu của nền kinh tế thế giới. Thật không quá khi nói rằng, chính quốc gia lớn nhất châu Á đã cứu các nước phương Tây thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Nhưng chính dịch COVID-19 và chính sách đối phó có phần “hà khắc” đã đẩy quốc gia này vào bờ vực của suy thoái kinh tế. Bong bóng bất động sản của Trung Quốc, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hiện đang bị “xì hơi”, trong khi dân số nước này già đi nhanh chóng.
Tác động của Trung Quốc đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đặc biệt là lạm phát, là vô cùng lớn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng phi thường mà quốc gia này duy trì được liên tục từ những năm 1980 đã khiến Trung Quốc trở thành lực lượng thống trị trong lĩnh vực thương mại toàn cầu, nhưng mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc ra thế giới không phải là quần áo, đồ điện tử hay máy móc và công nghiệp nặng, mà chính là lạm phát luôn ở mức thấp hơn so với các nền kinh tế phát triển.
Nhờ lạm phát thấp dẫn đến chi phí thấp và Trung Quốc đã trở thành "công xưởng thế giới". Quy mô khổng lồ của các nhà máy tại đây cho phép các “đại gia" công nghiệp toàn cầu có thể sản xuất hàng hóa rẻ hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Vì vậy, trong khi các quốc gia phương Tây tự tán thưởng mình vì đã quản lý kinh tế một cách hoàn hảo và kiểm soát lạm phát thông qua chính sách tiền tệ được áp dụng xuất sắc, thì chính Trung Quốc đang gánh vác tất cả những công việc nặng nhọc đó của thế giới.
Tuy nhiên, mọi chuyện đang dần thay đổi. Áp lực giảm giá liên tục sẽ chậm lại và Trung Quốc, mặc dù vẫn là một cường quốc kinh tế lớn, nhưng có khả năng sẽ phải đối mặt với con số lạm phát ngày càng tăng. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới, trừ khi một quốc gia có quy mô dân số và diện tích lớn khác, như Ấn Độ trải qua quá trình chuyển đổi giống Trung Quốc, trở thành một “công xưởng giá rẻ” của thế giới.
Từ chủ nghĩa toàn cầu đến phi toàn cầu hóa
Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump từng bị coi là “kẻ thù” của chủ nghĩa toàn cầu, nhưng ngay cả khi nhiệm kỳ của ông Trump đã kết thúc, thì tình trạng bất ổn tại các quốc gia phát triển vẫn tiếp diễn.
Khi các ngành công nghiệp đóng cửa hàng loạt nhà máy trên khắp các quốc gia phát triển và chuyển chúng sang Trung Quốc, tình trạng thất nghiệp, mức lương thực tế thấp hơn so với lạm phát đã gây ra sự bất mãn trong xã hội. Sự thay đổi tư duy chính trị theo hướng cực đoan xuất hiện ở cả cánh tả và cánh hữu.
Toàn cầu hóa đã mang lại các giá trị to lớn, như dỡ bỏ các rào cản thương mại, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc tế, tối ưu hóa các yếu tố thị trường và giúp hạ giá hàng hóa. Nhưng toàn cầu hóa cũng có nhược điểm, mà phần lớn chúng đã bị bỏ qua. Lợi ích của toàn cầu hóa chủ yếu dồn về các nhóm ngày càng nhỏ hơn và giàu có hơn, là các công ty đa quốc gia và công ty lớn hàng đầu thế giới. Sau khi đạt đến giai đoạn “đỉnh”, sức hấp dẫn của một nền kinh tế toàn cầu hóa bắt đầu có dấu hiệu giảm sút.
Đại dịch đã khiến toàn cầu hóa lâm vào tình trạng "đóng băng" khi giao thương xuyên quốc gia bị đình trệ, dẫn đến gián đoạn thương mại, tình trạng thiếu hụt nguyên liệu và hàng hóa trầm trọng. Sau đó, cuộc xung đột Nga-Ukraine một lần nữa đã phá vỡ nỗ lực của các nhà lãnh đạo toàn cầu trong việc “hàn gắn” thế giới bằng thương mại.
Giờ đây thế giới đang chuyển sang phi toàn cầu hóa, nhưng việc thúc đẩy các công ty quay trở lại sản xuất trong nước cũng tạo ra các tác động tiêu cực. Chi phí nhân công tăng lên có nghĩa là người tiêu dùng sẽ phải trả nhiều tiền hơn cho hàng hóa, và cuối cùng giá cả cao hơn sẽ gây áp lực cho lạm phát và thúc đẩy một mặt bằng lãi suất cao hơn.
Từ góc độ toàn cầu, kết quả cuối cùng là chúng ta khó có thể chứng kiến một lần nữa phép màu kinh tế ở Trung Quốc, nơi hàng tỷ người đã thoát nghèo chỉ trong vòng một thế hệ.
Khủng hoảng năng lượng và hệ quả
Cuộc khủng hoảng năng lượng mới nhất đã dẫn đến một đợt bùng phát lạm phát mới. Điểm đáng lưu ý là cuộc khủng hoảng này diễn ra trùng với thời điểm kết thúc chủ nghĩa tiền tệ, hay có thể lý giải là vào lúc các chính sách tiền tệ đã đạt đến điểm giới hạn.
Các chính phủ, đặc biệt là ở châu Âu, đã bắt đầu đóng vai trò lãnh đạo trong quản lý kinh tế. Họ can thiệp vào thị trường năng lượng, đánh thuế cao hơn đối với các nhà sản xuất và phân phối số tiền thu được cho người tiêu dùng. Ngay cả chính phủ Bảo thủ của Vương quốc Anh cũng đã có động thái tương tự.
Hệ quả là một sự thay đổi bắt đầu bởi Liên minh châu Âu (EU) vào 6 năm trước, cộng hưởng với cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay, đã dẫn đến các hành động chính sách như áp đặt giá trần hay can thiệp trực tiếp vào thị trường hàng hóa năng lượng. Đó có thể được coi là phản đề của một thị trường tự do.
Ngay cả Australia, một trong những quốc gia xuất khẩu khoáng sản lớn nhất thế giới, cũng đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt năng lượng và giá cả tăng cao, khi các công ty đa quốc gia thu được lợi nhuận khổng lồ từ hậu quả chính trị và kinh tế trong cuộc xung đột Nga-Ukraine.
"Cuộc đua" chuyển đổi năng lượng
Một yếu tố cuối cùng không thể không nhắc tới, có khả năng định hình nền kinh tế toàn cầu trong năm 2023 và các năm sau nữa, đó là chuyển đổi năng lượng.
Thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt từ rất lâu, trước khi có sự thay đổi bất ngờ vừa diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu. Đến nay, vấn đề chống biến đổi khí hậu ngày càng trở nên cấp bách hơn nữa.
Mặt khác, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã gây áp lực lên nền kinh tế của các quốc gia Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và những tác động đã lan rộng trên toàn cầu. Một ví dụ điển hình là Đức, quốc gia này phụ thuộc rất nhiều vào khí đốt của Nga cho phần lớn các hoạt động sản xuất trong nước, và giá năng lượng tăng đột biến đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế của nước này. Suy thoái có thể sẽ diễn ra trong những tháng tới, nhưng khả năng phục hồi trong chi tiêu của người tiêu dùng Đức có thể giúp hạn chế một phần thiệt hại đó.
Không chỉ có khí đốt, giá than - mặt hàng năng lượng truyền thống - cũng đã tăng lên mức kỷ lục, khiến giá điện tăng đột biến. Điều đó tạo ra cơ hội và thách thức. Mức giá cao hơn có khả năng đẩy nhanh việc chuyển đổi sang các dòng nhiên liệu sạch hơn. Một cuộc chạy đua đang diễn ra giữa các "đại gia" năng lượng để trở thành người dẫn đầu cho ngành công nghiệp hydro xanh hay nhà tiên phong phát triển lĩnh vực điện khí hóa do năng lượng Mặt Trời và gió tạo ra.
Chi phí tái cấu trúc nguồn cung cấp năng lượng của thế giới là rất lớn. Để bắt đầu, các quốc gia cần nâng cấp lưới điện. Cho tới thời điểm hiện tại, hệ thống lưới điện tại tất cả các quốc gia trên thế giới đều được thiết kế để vận chuyển năng lượng từ các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than hay các nhà máy thủy điện, điện hạt nhân... Khi các nhà máy đó đóng cửa và việc sản xuất năng lượng trở nên phổ biến hơn về mặt địa lý, hệ thống lưới điện sẽ cần được xây dựng lại.
Kết quả là điện ở khắp các quốc gia sẽ đắt hơn. Mặc dù đến một thời điểm, giá điện sẽ rẻ hơn so với việc chúng ta không làm gì cả và tiếp tục sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhưng để làm được điều này đòi hỏi chi phí nhiều hơn so với hiện nay. Điều đó sẽ tiếp tục thúc đẩy lạm phát và lãi suất cao hơn.