7 lực đẩy cho chứng khoán Việt Nam năm Tân Sửu
Thứ nhất, vận động dòng vốn đầu tư tài chính toàn cầu sang các thị trường mới nổi thông qua ETF và cơ hội nâng hạng thị trường.
Năm 2021 được coi là năm bản lề quan trọng trong việc thay đổi về cấu trúc cũng như chất lượng hướng đến giai đoạn phát triển mới của thị trường chứng khoán với Luật Chứng khoán sửa đổi, luật Doanh nghiệp 2020 và luật Đầu tư 2020 sẽ được chính thức áp dụng đồng thời từ 1/1/2021.
Điều này sẽ giúp tạo môi trường kinh doanh phù hợp chuẩn mực quốc tế, nâng cao tính minh bạch, tránh hiện tượng chồng chéo từ đó tháo gỡ nhiều vướng mắc hoạt động đầu tư của khối ngoại, đưa các sản phẩm mới quan trọng như giao dịch T+0, bán chứng khoán chờ về, chứng chỉ không có quyền biểu quyết (NVDR), hợp đồng tương lai và quyền chọn.
Từ những thay đổi mới trên, đây là tiền đề giúp TTCK Việt Nam thỏa mãn được các tiêu chí nâng hạng thị trường. BSC dự báo thị trường Việt Nam sẽ có cơ hội được nâng hạng FTSE vào tháng 9/2021 và cơ hội nâng hạng MSCI sẽ diễn ra trong giai đoạn 2023 - 2025.
Tuy nhiên tốc độ nâng hạng thị trường sẽ phụ thuộc nhiều vào tốc độ và nỗ lực cải thiện tiêu chí nâng hạng của các cơ quan ban ngành.
Chứng khoán BSC cho rằng sự nỗ lực cải thiện đáng kể của thị trường Việt Nam nói chung và cơ quan ban ngành nói riêng thông qua quy mô cũng như thanh khoản giao dịch giai đoạn đầu tháng 1/2021 tăng gấp hai đến ba lần lên mức 16.000 – 18.000 tỷ đồng/phiên so với năm 2019, quy mô vốn hóa của thị trường cổ phiếu đã đạt 84,3% GDP năm 2020 và nhiều điều kiện khác đang dần được đáp ứng.
Điều này minh chứng cho quá trình nâng hạng thị trường sẽ sớm được rút ngắn, và vấn đề chính chỉ còn lại là thời gian bao lâu trước khi Việt Nam được nâng hạng.
Thứ hai, động lực kép từ dòng vốn cá nhân trong nước với môi trường lãi suất thấp.
Năm 2020 cũng đánh một dấu mốc mới với số lượng tham gia mạnh mẽ của nhóm nhà đầu tư cá nhân, đặc biệt nhóm các nhà đầu tư mới F0. Tài khoản cá nhân trong nước hiện chiếm đến 78,7% tổng giá trị giao dịch, tăng từ mức 70% năm 2019.
Trong năm 2020, lượng mở tài khoản mới ghi nhận mức 393,7 nghìn tài khoản (tăng 108% so với năm 2019), nâng tổng số tài khoản chứng khoán lên mức 2,73 triệu tài khoản.
Tổng số lượng tài khoản chứng khoán chỉ mới chiếm 2,8% tổng dân số cả nước, đây là mức rất thấp so với các quốc gia khác trong khu vực. Chứng khoán BSC tin rằng tiềm năng từ thị trường vẫn còn rất lớn, xu hướng chuyển dịch đầu tư sang thị trường chứng khoán chỉ mới ở giai đoạn khởi trào.
Ngoài ra, môi trường lãi suất thấp đã có những tác động trực tiếp thay đổi khẩu vị đầu tư của nhà đầu tư trong bối cảnh kênh đầu tư ưu thích và có giá trị giao dịch hàng đầu bất động sản đang trong giai đoạn trầm lắng do thiếu hụt nguồn cung.
Ngoài ra, thị trường vàng vẫn bị kiểm soát và bắt đầu có xu hướng điều chỉnh giảm, quy mô kênh trái phiếu đang bị thắt chặt do các quy định chặt chẽ (Nghị định 81 hiệu lực từ ngày 1/9/2020).
Trong khi đó, số lượng tài khoản mở mới tăng mạnh tại thị trường Việt Nam được đánh giá là minh chứng rõ ràng về sức hút của thị trường chứng khoán trong bối cảnh hiện tại, và dòng vốn nội khối được dự kiến vẫn là nhân tố chính dẫn dắt thị trường chứng khoán năm 2021. Hiện tượng trên không chỉ diễn ra đặc thù tại Việt Nam mà còn tương đồng với nhiều thị trường khác như Mỹ, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Thứ ba, thị trường VN và khu vực mới nổi sẽ được định giá ở mức cao hơn trong bối cảnh các NHTW sẽ duy trì chính sách điều hành lãi suất ở mức thấp trong 1 - 2 năm tới.
Tính đến 10/1/2020, VN-Index hiện đang giao dịch ở mức PE tra cứu (trailing) là 18,4 lần, cao hơn mức 15.5% trung bình. Nếu nhìn lại trong quá khứ, có thể thấy mức độ định giá của thị trường sẽ có độ tương quan ngược chiều với lãi suất.
Do đó, Chứng khoán BSC tin rằng trong năm 2021, TTCK Việt Nam có thể được định giá giao dịch với mức PE bình quân khoảng 18,x lần, cao hơn khoảng 15 - 20% (lãi suất trung bình là 5,6%) so với mức PE trung bình giai đoạn 2015 - 2019 (15.x lần, lãi suất TB = 7%) và giai đoạn 2011-2013 (12.x lần, Lãi suất TB= 11%).
Cùng với đó, diễn biến vĩ mô tại thời điểm này có nền tảng vững chắc và có nhiều điểm khác biệt tương đối so với giai đoạn khủng hoảng 2009 - 2011. Vì vậy, rủi ro thị trường sụt giảm sốc sẽ có khả năng xảy ra khi thị trường tăng quá nóng.
Thứ tư, tiến triển bào chế Vắc xin đã có những bước tiến vượt bậc trong năm 2020, việc đưa vào sử dụng rộng rãi sẽ củng cố đà hồi phục của nhu cầu tiêu thụ.
Tính tới thời điểm hiện tại, trên thế giới có hơn 20 loại vắc xin đang được nghiên cứu, trong đó, có 8 loại vắc xin đang được thử nghiệm ở pha III. Thời gian kiểm nghiệm độ hiệu quả của vaccine và được phân phối rộng rãi hơn dự kiến sẽ rơi vào nửa cuối năm 2021.
Theo đó, Chứng khoán kỳ vọng việc này có thể giúp hồi phục nhu cầu và sức mua các mặt hàng tiêu dùng, qua đó ảnh hưởng tích cực lên sự hồi phục của các doanh nghiệp xuất khẩu và bản thân nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Các nhóm ngành được BSC kỳ vọng sẽ phục hồi tốt như dệt may, thủy sản.
Thứ năm, phục hồi tăng trưởng lợi nhuận mạnh mẽ các ngành trong năm 2021 là yếu tố giúp thị trường chứng khoán Việt Nam giao dịch ở mức hấp dẫn hơn.
Chúng tôi tin rằng hiệu suất của tất cả các nhóm đều có mức tăng nhẹ cùng chiều với sự vận động của VN-Index. Mức tăng trưởng lợi nhuận được dự báo khả quan đến từ sự phục hồi chung các nhóm ngành kinh tế với tỷ trọng đóng góp chính đến từ (1) Ngân Hàng, (2) Bất động sản, (3) Công nghiệp, (4) Dầu khí và (5) Dịch vụ tiêu dùng bán lẻ.
Theo đó, VN-Index đang giao dịch với mức PE dự báo năm 2021 là 14,3 lần. BSC dự báo VN-Index theo kịch bản tích cực sẽ đạt 1.258 điểm vào cuối năm 2021.
So sánh với khu vực, thị trường Việt Nam vẫn đang được định giá thấp hơn tương đối nhiều trong khi đó hiệu suất hoạt động ở mức cao nhất khu vực (ROE =13%).
Mức định giá cao của các nước khu vực chủ yếu đến từ các nhóm nước này đang được phân loại vào thị trường mới nổi (Emerging Markets) và mức tăng trưởng lợi nhuận năm 2020 bị ảnh hưởng mạnh bởi dịch Covid-19.
Tựu chung lại, thị trường Việt Nam hiện tại đang khá hấp dẫn so với khu vực với (1) mức độ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch thấp, (2) lợi nhuận các nhóm ngành dự kiến hồi phục khả quan, (3) nền tảng vĩ mô ổn định, (4) khả năng nâng hạng thị trường lên thị trường mới nổi.
Thứ sáu, giải ngân đầu tư công sẽ là “đôi cánh” nâng đỡ tăng trưởng kinh tế Việt Nam phục hồi trong năm 2021.
Tiến độ giải ngân vốn ngân sách nhà nước năm 2020 ghi nhận mức tăng trưởng đáng khích lệ, ước đạt 91,13% so với kế hoạch. Tỷ lệ giải ngân năm 2020 đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2016-2020, tương đương với ước ghi nhận khoảng 466,3 nghìn tỷ đồng.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư công tập trung vào xây dựng hạ tầng giao thông liên vùng và kinh tế số là trọng điểm thúc đẩy tăng trưởng các ngành nghề kinh tế với hàng loạt dự án như sân bay Long Thành, cao tốc Bắc Nam, các tuyến đường vành đai, ven biển.
Chính sách trên có điểm tương đồng tương đối lớn với chính sách điều hành của Trung Quốc hậu giai đoạn khủng hoảng 2008 - 2009, cùng với việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đây chính là yếu tố cốt lõi giúp kinh tế Trung Quốc ghi nhận sự tăng trưởng thần tốc giai đoạn sau đó.
Thứ bảy, tiến trình niêm yết/cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước năm 2020 còn chậm, chưa có dấu hiệu đảo chiều tích cực trong năm 2021, tuy nhiên để ngỏ khả năng bùng nổ trở lại từ năm 2022.
Công tác thoái vốn/niêm yết cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong triển khai thực hiện chủ yếu đến từ sắp xếp, phê duyệt phương án sử dụng đất; đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, phần vốn để cổ phần hóa.
Trong đó, tập trung lớn một số tập đoàn kinh tế đang chờ xác định giá trị doanh nghiệp như Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank), Genco1, Tập đoàn Hóa Chất Việt Nam, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, Bưu chính viễn Thông Việt Nam (MobiFone), Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam, Tổng công ty Bến Thành,…