Lãi suất VND giảm sâu ép tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước hối hả điều tiết
Vì sao VNĐ lại giảm giá so với USD ít hơn các đồng tiền khác? | |
Tỷ giá USD lập đỉnh mới dưới tác động của Fed và quan hệ Trung - Mỹ |
Trước đó một phiên, ngày 20/6, sau một thời gian dài thị trường liên ngân hàng chính thức đón nhận lãi suất chào VND qua đêm rơi xuống dưới mốc 1%/năm, chỉ còn 0,91%/năm.
Cũng như ở các kỳ hạn ngắn, lãi suất VND trên liên ngân hàng giảm rất sâu so với quãng ổn định thời gian qua.
Diễn biến trên gắn với chuyển động của dòng tiền lớn ra thị trường, dẫn tới điểm hoán đổi lãi suất VND với USD âm sâu và là một trong những yếu tố kích thích tỷ giá USD/VND biến động.
Cũng từ dữ liệu giao dịch ngày 20/6, trên thị trường liên ngân hàng, chênh lệch lãi suất "đô - đồng" đã doãng rộng sâu sắc. Điển hình như lãi suất qua đêm VND chào chỉ còn 0,91%/năm, thì ở USD lại tăng lên tới 1,94%/năm.
Với tỷ giá, điểm hoán đổi lãi suất nghiêng mạnh về USD như trên khuyến khích việc đầu tư, nắm giữ USD, tác động đến cung cầu và phản ánh đến giá giao dịch. Và diễn biến của tỷ giá USD/VND liên tiếp tăng lên những ngày gần đây là một phản ứng cụ thể.
Tỷ giá USD/VND biến động, dù mức độ còn rất nhỏ, được xem là tổng hòa nhiều tác động vừa qua, như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất, nhập siêu có bóng dáng trở lại trong tháng 5, nhà đầu tư nước ngoài bán ròng kéo dài trên sàn chứng khoán có thể tạo tâm lý đầu cơ hoặc dịch chuyển vốn, và chênh lệch lãi suất "đô - đồng" có chiều hướng bất lợi nói trên.
Ảnh minh hoạ |
Chính yếu nhất vẫn ở cân đối lãi suất VND - USD trên thị trường liên ngân hàng. Mà ở đây, Ngân hàng Nhà nước đã hối hả can thiệp, điều tiết từ hơn chục ngày trước.
Cụ thể, cuối tháng 5 vừa qua, ở nghiệp vụ thị trường mở, diễn biến có vẻ êm đềm và cân bằng, khi liên tục 12 phiên nối tiếp các tổ chức tín dụng không tham gia gửi vốn mới vào kênh tín phiếu Ngân hàng Nhà nước chào thầu. Thậm chí, chuỗi tạm vắng đó dường như phản ánh thanh khoản hệ thống tạm thời không còn dư thừa nhiều như trước.
Nhưng, hối hả và dồn dập từ tuần thứ hai của tháng 6, Ngân hàng Nhà nước liên tiếp chào thầu lượng lớn tín phiếu, cũng như mở rộng các kỳ hạn để hút bớt tiền về. Lượng hút về cũng khá lớn, với số dư tín phiếu lưu hành tăng khoảng gấp ba lần trước đó, lên tới hơn 120.000 tỷ đồng tính đến phiên 20/6.
Là nghiệp vụ chủ đạo, nhà điều hành liên tục phát hành tín phiếu để hút bớt tiền về, trung hòa tác động của lượng lớn tiền đồng đưa ra mua ngoại tệ cao điểm cuối 2017 đầu 2018.
Đó cũng chính là điểm khác biệt chưa từng có từ trước tới nay, cũng như so sánh gần nhất với năm 2017.
Năm ngoái, từ trung tuần tháng 3/2017, Ngân hàng Nhà nước gần như không phải trung hòa hoặc hút bớt tiền về với số dư tín phiếu lưu hành bằng 0, và phải đến ngày 17/7 mới nối lại kênh điều tiết này.
Còn năm nay, ròng rã từ tháng 2 đến nay, nhà điều hành liên tục phải phát hành tín phiếu với số dư lớn để hút bớt tiền về. Như trên, do nguồn cung tiền đồng quá lớn khi liên tiếp mua vào ngoại tệ.
Hoạt động trên một mặt trung hòa tác động của dòng vốn lớn chảy ra có thể gây áp lực lạm phát, mặt khác nhằm gián tiếp cân đối lãi suất VND để tránh gây sức ép đối với tỷ giá USD/VND.
Những ngày gần đây, như trên, lãi suất VND rơi sâu trên thị trường liên ngân hàng dẫn tới điểm hoán đổi lãi suất với USD trở nên bất lợi sâu sắc và trở thành yếu tố gây sức ép đối với tỷ giá.
Ngân hàng Nhà nước đã sớm chủ động vào cuộc điều tiết bằng hối hả phát hành tín phiếu, hút bớt tiền về với tần suất dày và đậm hơn từ tuần thứ hai của tháng 6. Điểm còn lại là dòng tiền lớn đó từ đâu.
Tháng 2 và tháng 3/2018, trước nguồn cung ngoại tệ lớn, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ mua ngoại tệ kỳ hạn. Điều này nhằm giãn từng bước việc đưa tiền đồng ra mua, giãn áp lực của nó. Độ trễ được rút ngắn, các hợp đồng lần lượt đáo hạn cho đến nay, tạo cung mới.
Nhưng, đó là lượng Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn chủ động đong đếm để cân đối khớp nhịp điều tiết ở kênh phát hành tín phiếu. Nhưng lãi suất VND vẫn giảm rất sâu và tỷ giá có phản ứng.
Trong những cân đối và diễn biến đó, hẳn có yếu tố nguồn tiền lớn khác khiến Ngân hàng Nhà nước không hoàn toàn chủ động, có tác động lớn. Nó có vẻ là một ẩn số và thường ở dạng biến số khiến chính sách tiền tệ trở nên thụ động.