Kinh tế Trung Quốc đang đi theo vết xe đổ của Nhật Bản?
Thoạt đầu nhìn qua, thì ai cũng nghĩ rằng Trung Quốc với Nhật Bản là 2 thế giới hoàn toàn khác nhau. Một bên là Nhật Bản đang loay hoay tìm lối đi mới sau 2 thập kỷ liền bế tắc, một bên là Trung Quốc không ngừng trỗi dậy với hàng loạt tham vọng mới. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ thì sẽ thấy rằng Trung Quốc đang lặp lại y hệt những sai lầm mà Nhật đã mắc phải trước đây.
“Chúng tôi tin rằng Trung Quốc rồi cũng sẽ rơi vào giai đoạn tăng trưởng cực kỳ chậm, y hệt như Nhật Bản”, các chiến lược gia của Goldman Sachs đã bình luận như vậy cách đây vài tháng. Hồi tháng 5, các nhà phân tích của Moody’s cũng cảnh báo: “Trung Quốc có thể sẽ phải chịu một giai đoạn tăng trưởng yếu kém kéo dài và áp lực giảm phát liên tục, hoặc thậm chí là bế tắc về tăng trưởng”. Nhà sáng lập James Chanos của quỹ Kynikos Associates thậm chí còn so sánh là Trung Quốc đang chạy theo con đường cũ của Nhật Bản “với thuốc tăng lực”.
Một số người có thể cho rằng đây là những cảnh báo nhàm chán về Trung Quốc mà nhiều năm qua vẫn chưa trở thành sự thực. Nhưng hãy nhớ lại rằng cách đây 30 năm cũng chẳng mấy ai nhìn thấy trước sự đi xuống của Nhật Bản. Là nước châu Á đầu tiên được xem là đối thủ đáng gờm đủ sức qua mặt nước Mỹ, nền kinh tế Nhật từng được coi là ưu việt hơn Mỹ nhờ vào mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng. Bằng cách bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và chuyển hướng dòng chảy tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, các quan chức ở Tokyo đã góp phần tạo ra những doanh nghiệp Nhật Bản dồn người Mỹ vào chân tường.
Tuy nhiên, ngay cả lúc ở đỉnh cao huy hoàng, thì nước Nhật cũng đã bắt đầu đi vào con đường thoái trào. Các mối quan hệ quá mật thiết giữa giới ngân hàng, doanh nghiệp và quan chức dẫn tới việc sử dụng vốn không đúng chỗ và gây ra nhiều đầu tư lãng phí. Tới nửa sau thập kỷ 1980, tăng trưởng của Nhật bắt đầu dựa vào bùng nổ tín dụng lãi suất thấp, gây ra bong bóng bất động sản và chứng khoán. Khi bong bóng nổ tung vào đầu những năm 1990, ngành tài chính của Nhật gần như bị “san phẳng”, và cho tới nay nước Nhật vẫn chưa gượng dậy hoàn toàn.
Những chính sách kích thích tăng trưởng mà Trung Quốc đã và đang sử dụng là bản sao của những gì nước Nhật đã làm, và thậm chí vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Trung Quốc còn lớn hơn nhiều so với Nhật. Điều này đã dẫn tới việc dư thừa hàng loạt nhà máy thép, tổ hợp xi măng và nhà chung cư trên một quy mô chưa từng thấy. Để giải quyết, Trung Quốc lại tiếp tục dùng tới tăng trưởng tín dụng lãi suất thấp để giữ cho những doanh nghiệp không hiệu quả có đường sống tiếp. Điều này lại tạo ra thêm bong bóng tài sản, y hệt như ở Nhật Bản.
Năm ngoái, thị trường chứng khoán ở Trung Quốc đã tăng trưởng tới mức chóng mặt, để rồi lại sụp đổ không phanh. Giờ đây, giá bất động sản ở Thượng Hải, Thâm Quyến và nhiều đô thị lớn khác lại đang tăng nhanh tới mức chính phủ phải nhảy vào can thiệp.
Trước đây, Nhật Bản từng chứng kiến tỷ lệ tổng dư nợ tín dụng / GDP tăng tới 80 điểm phần trăm trong giai đoạn 1980-1989, đạt mức 275% GDP, theo số liệu từ Fitch. Trung Quốc thì tăng tới tận hơn 100 điểm chỉ trong 2007-2015, đạt 255% GDP, theo số liệu từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS).
Có những nhà kinh tế cho rằng tăng trưởng tín dụng như vậy tại Trung Quốc là không nhiều rủi ro như vẫn tưởng, vì có một lượng khá lớn tín dụng là do các ngân hàng nhà nước cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh, và nhà nước sẽ sẵn sàng can thiệp để giải cứu. Ngoài ra, do hầu hết hoạt động tín dụng ở Trung Quốc là chỉ diễn ra ở trong nước, và tỷ lệ tiết kiệm của Trung Quốc rất lớn, nên ảnh hưởng từ bên ngoài là không nhiều.
Tỷ lệ doanh nghiệp Trung Quốc mang nợ cao hơn 5 lần EBITDA đang ở gần 60%. Ảnh: Financial Times |
Thay vì để cho các công ty bị mắc nợ quá nhiều phá sản, chính phủ Nhật đã cố vực dậy các “xác sống” này bằng cách cấp thêm tín dụng và thực hiện các thủ thuật như đổi nợ lấy vốn sở hữu. Ngoài ra, chính phủ còn dùng tới các chính sách kích cầu như đi vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nới lỏng định lượng tiền tệ trên quy mô chưa từng có. Cùng lúc đó, hệ thống nhà nước của Nhật vẫn không chịu cải tổ để mở cửa thị trường, khuyến khích cạnh tranh và khởi nghiệp. Kết quả là hiện tại tổng dư nợ tín dụng của Nhật đã gần bằng 400% GDP mà nền kinh tế vẫn chưa gượng dậy được.Tuy nhiên, kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy mọi chuyện không đơn giản như vậy. Nhật Bản cũng từng có thặng dư thương mại rất lớn và lượng tiết kiệm dồi dào vào đầu những năm 1990, nhưng không cản nổi đà rơi vào khủng hoảng. Bài học của Nhật Bản cho thấy một nền kinh tế vừa dễ rơi vào bong bóng, vừa quá phụ thuộc vào tín dụng thì sẽ dễ bị khủng hoảng, bất kể các yếu tố khác ra sao.
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra cam kết sẽ cải tổ nền kinh tế theo định hướng thị trường, giảm thiểu lãng phí và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân, nhưng thực ra là vẫn đang đi theo vết xe đổ của Nhật. Nhiều công ty nhà nước vẫn đang sống vật vờ nhờ vào nguồn tín dụng và các gói hỗ trợ từ chính phủ, và tới tháng 10 vừa qua thì Trung Quốc lại đưa ra kế hoạch đổi nợ lấy vốn sở hữu.
Ngoài ra, gánh nặng nợ của Trung Quốc cũng ngày càng tăng cao, khi mà tín dụng tăng trưởng nhanh hơn GDP nhưng không mang lại kết quả gì đáng kể. Tương tự như Nhật Bản trước đây, hiệu quả của tăng trưởng tín dụng tại Trung Quốc ngày càng giảm dần, và có dấu hiệu cho thấy rất nhiều khoản vay mới chỉ được dùng để thanh toán cho các khoản vay cũ, chứ không dùng để đầu tư cho phát triển kinh doanh.
Trung Quốc và Nhật Bản cũng cùng gặp một vấn đề rất lớn nữa là già hóa dân số. Số người Nhật ở độ tuổi lao động đã giảm 0,4%/năm trong giai đoạn 1990-2015. Điều này nghĩa là ngày càng có ít người làm việc để nuôi lượng người về hưu ngày càng đông. Do chính sách một con trước đây, Trung Quốc sẽ còn gặp vấn đề lớn hơn: theo Goldman Sachs, số người Trung Quôc ở độ tuổi lao động sẽ giảm gần 0,5%/năm trong vòng 25 năm tới.
Liệu Trung Quốc có thể thoát khỏi các cạm bẫy mà Nhật đã mắc phải? Điều đó chỉ có thể xảy ra nếu chính phủ nước này chịu thực hiện đầy đủ các cam kết cải tổ mà họ đã đưa ra, bằng không thì rủi ro chỉ ngày càng tăng cao. Cả Bắc Kinh lẫn Tokyo đều mắc phải một sai lầm chết người: không chịu chấp nhận thay đổi một mô hình không còn hiệu quả.