|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Quốc tế

Hai vấn đề với đồng yen Nhật trong năm 2024

08:04 | 07/12/2023
Chia sẻ
Tiền tệ là tấm gương phản ánh uy tín tín dụng của quốc gia sử dụng nó. Đồng yen Nhật sẽ bước vào giai đoạn quan trọng trong năm tới với hai trở ngại tiềm tàng.

Đồng yen Nhật. (Ảnh: Bloomberg).

Trang mạng Nikkei Asia ngày 5/12 đăng bài phân tích về hai vấn đề đối với đồng yen của Nhật Bản trong năm 2024 và cho rằng niềm tin của các nhà đầu tư vào Nhật Bản - chủ nợ lớn nhất thế giới có nguy cơ suy yếu.

Trong bài phát biểu tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Nhật Bản vào cuối tháng 11/2023, cựu Thứ trưởng Tài chính Eisuke Sakakibara đã nói rằng: “Đồng yen mạnh là vì lợi ích quốc gia của chúng ta”.

Ông Sakakibara được gọi là “Mr.Yen” vào nửa cuối những năm 1990, khi ông lãnh đạo hoạt động can thiệp ngoại hối của đất nước. Bình luận của ông ở Tokyo đã gián tiếp dẫn lời ông Robert Rubin, Bộ trưởng Tài chính Mỹ cùng thời từng nói: “Một đồng USD mạnh là vì lợi ích quốc gia của chúng ta”. 

Không có gì cần tranh luận về vấn đề này, tiền tệ là tấm gương phản ánh uy tín tín dụng của quốc gia sử dụng nó. Đồng yen Nhật sẽ bước vào giai đoạn quan trọng trong năm tới với hai trở ngại tiềm tàng mà ngành logistics nước này dự kiến sẽ phải đối mặt. 

Vấn đề đầu tiên là Nhật Bản có thể mất vị thế chủ nợ lớn nhất thế giới. Tài sản ròng bên ngoài của nước này đạt tổng cộng 3.100 tỷ USD vào cuối năm 2022, tiếp theo là 2.900 tỷ USD của Đức. Về lý thuyết, sự thay đổi trong số dư tài khoản vãng lai gần như được phản ánh chính xác vào tài sản ròng bên ngoài.

Theo tính toán dựa trên dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tổng tài sản ròng bên ngoài của Nhật Bản dự kiến sẽ đạt lần lượt là 3.300 tỷ USD và 3.400 tỷ USD vào cuối năm 2023 và 2024. Trong khi đó, con số này của Đức dự kiến lần lượt sẽ là 3.200 tỷ USD và 3.500 tỷ USD, nghĩa là Đức có khả năng soán ngôi vị của Nhật Bản.

Khi sức mạnh tương đối về thu nhập từ xuất khẩu giảm sút, Nhật Bản phải dựa vào lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài để hỗ trợ thặng dư tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, việc này cũng đang có những dấu hiệu cho thấy sự thay đổi nghiêm trọng.

Ngày 24/11 trên thị trường ngoại hối Thượng Hải, đồng yen tụt giá xuống còn 4,7749 CNY (Nhân dân tệ) đổi 100 yen, mức thấp nhất kể từ năm 2005, khi đồng CNY chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý.

Mặc dù sự suy yếu của đồng yen một phần là do sự mất giá của đồng tiền này so với USD, nhưng điều đáng lưu ý là sự thay đổi cơ cấu trong cán cân tài khoản vãng lai của Nhật Bản với Trung Quốc.

Tình trạng thâm hụt diễn ra kể từ quý I/2022 và tổng thâm hụt từ đó đến quý II/2023 đạt khoảng 4.500 tỷ yen (30 tỷ USD). Điều đó đồng nghĩa với việc Nhật Bản phải lấy khoảng gần 20% thặng dư thương mại với Mỹ để bù lại khoản thâm hụt với Trung Quốc.

Xuất khẩu của Nhật Bản giảm, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến chất bán dẫn là yếu tố then chốt khiến gia tăng thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cũng không thể không kể đến sự suy giảm doanh thu đầu tư, chẳng hạn như lợi nhuận từ các công ty con ở nước ngoài. Nguyên nhân là do các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn và cả tình trạng suy thoái kinh tế của Trung Quốc – đối tác kinh tế lớn nhất của Nhật Bản.

Nhà kinh tế Emin Yurumazu người đến từ Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang làm việc cho Million Eyes (Tokyo) đã so sánh một cách “châm biếm” khi ví đồng yen với đồng tiền quốc gia lira của Thổ Nhĩ Kỳ.

Ở Thổ Nhĩ Kỳ, lãi suất chính sách được duy trì dưới mức lạm phát dẫn đến lãi suất ròng âm, trong bối cảnh thâm hụt kép kéo dài với cả cán cân tài chính và cán cân tài khoản vãng lai, dẫn đến vòng xoáy tiêu cực của giá cả cao hơn và đồng nội tệ yếu hơn.

Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2020 - khi đại dịch COVID-19 bùng phát đến tháng 10/2023, tỷ giá hối đoái thực tế của đồng yen đã giảm 29%, so với mức giảm 21% của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ.

Tỷ giá hối đoái thực tế là một chỉ số biểu thị sức mua tương đối của một loại tiền tệ, được tính toán có tính đến những thay đổi về giá và thương mại, đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của nước đó.

Đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ giảm hơn 70% về mặt danh nghĩa so với cùng kỳ, nhưng điều này là do tỷ lệ lạm phát hằng năm của nước này lên tới hơn 60%. Nếu bỏ qua tác động này, mức giảm của đồng yen nhỏ hơn.

Chiến lược gia trưởng của Tập đoàn tài chính Fukuoka - Toru Sasaki đánh giá “tình trạng này làm nổi bật sự suy yếu về bản chất của đồng yen”. Nhật Bản là chủ nợ lớn nhất thế giới nhưng tổng nợ chính phủ của nước này lớn hơn nhiều so với Thổ Nhĩ Kỳ.

Theo thống kê của Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ), dòng tiền ròng chảy ra nước ngoài thông qua quỹ ủy thác đầu tư chứng khoán - chênh lệch giữa số tiền đầu tư và số tiền thu được - đạt tổng cộng 105.000 tỷ yen (khoảng 700 tỷ USD) trong thời gian từ tháng 1/2000 – 6/2023.

Số liệu thống kê cũng cho thấy xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các quỹ trong các chu kỳ đồng yen giảm, các giai đoạn lần lượt là 2005-2007, 2013-2015 và từ năm 2020 đến nay.

Bên cạnh đó, Nhật Bản sẽ triển khai chương trình miễn thuế mới cho các khoản đầu tư cá nhân nhỏ – NISA (Nippon Individual Savings Account, tạm dịch là tài khoản tiết kiệm cá nhân Nhật Bản, là một chế độ đầu tư miễn thuế ở Nhật Bản tương tự mô hình ISA của Anh) từ tháng 1/2024.

Việc này hoàn toàn có khả năng biến các dòng tiền cá nhân nhỏ thành một “dòng sông lớn”. Đây là vấn đề thứ hai của đồng yen trong năm 2024.

Trong thời đại toàn cầu hóa này, không nên xem nhẹ niềm tin vào đồng yen, vốn là nền tảng để thu hút tiền cho các công ty Nhật Bản. Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu Nhật Bản ngay cả khi đồng yen yếu hơn nhờ niềm tin vào Nhật Bản với tư cách là chủ nợ lớn nhất thế giới.

Nếu niềm tin của họ suy yếu, họ chắc chắn sẽ bắt đầu coi trọng các công ty Nhật Bản có thu nhập và giá cổ phiếu trên cơ sở USD. Nếu điều này xảy ra, tác dụng thúc đẩy thu nhập của đồng yen sẽ không còn hiệu quả nữa.

Và nếu có người muốn khẳng định rằng việc đưa nền kinh tế thoát khỏi giảm phát hoặc duy trì đồng yen mạnh hơn là vì lợi ích quốc gia của Nhật Bản thì điều đó phải được người dân cảm nhận là thực tế, nếu không vẫn sẽ là những lời hứa suông. Một ngã rẽ lịch sử đang đến gần đối với nền kinh tế Nhật Bản.

Xuân Giao

Vì sao Mỹ chật vật với lạm phát hơn châu Âu?
Lạm phát có thể đã giảm mạnh từ các mức cao nhất hàng chục năm qua ở cả hai bờ Đại Tây Dương, nhưng tiến triển ở Mỹ đã chững lại, khiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) hiện được dự đoán sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất chậm hơn nhiều so với Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).