|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Chứng khoán

Giám đốc KBSV: Giai đoạn kinh doanh thuận lợi nhất của ngành ngân hàng đã qua, khó trở thành nhóm dẫn dắt thị trường

06:59 | 11/10/2022
Chia sẻ
Ông Trần Đức Anh cho rằng mặt bằng định giá của ngành ngân hàng sẽ không thể cao được như năm 2020-2021 bởi bối cảnh kinh doanh không còn thuận lợi.

Tại talkshow "Ra khơi 6/10" của FinPeace, Giám đốc Vĩ mô & Chiến lược Thị trường CTCP Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), ông Trần Đức Anh cho rằng mặt bằng định giá của ngành ngân hàng sẽ không thể cao được như năm 2020-2021 bởi bối cảnh kinh doanh không còn thuận lợi. Do đó, ngân hàng rất khó để trở thành ngành dẫn dắt chỉ số và thị trường.

Tuy nhiên theo ông, với vốn hoá lên đến 30-40% VNIndex, ngành ngân hàng sẽ tăng khi thị trường tăng và ngược lại. Trong thời gian qua, nhiều ngân hàng đã giảm giá rất sâu, so với đỉnh có những cổ phiếu đã giảm đến 50%.

"Những ngân hàng có P/B quanh mức 1x có thể đầu tư dài hạn vì ngành ngân hàng vẫn hấp dẫn trong dài hạn. Trong dài hạn, ROE ngân hàng vẫn khoảng 20-30% và thu nhập lãi thuần vẫn luôn tăng theo mức tăng trưởng tín dụng (13-14%).

Nếu đầu tư ngành ngân hàng ở thời điểm hiện tại, nhà đầu tư không nên kỳ vọng quá nhiều. Nhiều ngân hàng với câu chuyện đặc thù riêng có thể có mức tăng tốt hơn, nhưng khó để dẫn sóng", chuyên gia phân tích của KBSV cho hay.

Giai đoạn kinh doanh thuận lợi nhất của ngành ngân hàng đã qua

Đối với ngành ngân hàng, ông Đức Anh cho rằng giai đoạn hoạt động kinh doanh thuận lợi nhất đã qua. Theo đó, giai đoạn năm 2020-2021, dù bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, bối cảnh này lại tạo ra rất nhiều điều kiện để ngân hàng tăng trưởng lợi nhuận, có những lo ngại về nợ xấu nhưng số liệu thực tế của ngân hàng thì không có nhiều vấn đề.

Với quý IV/2022 và cả năm 2023, có rất nhiều yếu tố có ảnh hưởng không tốt đến ngành ngân hàng. Trong đó, yếu tố có thể nhìn thấy ngay ở thời điểm hiện tại là NIM của ngân hàng sẽ bị thu hẹp trước xu hướng tăng của lãi suất huy động do thanh khoản hệ thống thiếu hụt.

Ông Đức Anh cho biết chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hút tiền thông qua bán ngoại tệ hoặc kênh tín phiếu nhằm mục đích tăng lãi suất VND để giảm áp lực tỷ giá, song điều này cũng khiến thanh khoản thiếu hụt.

Nếu nhìn vào số tăng trưởng huy động và tín dụng 9 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng luôn nhanh hơn huy động khoảng 3-4%. Chẳng hạn tăng trưởng tín dụng lên đến 9% thì tăng trưởng huy động chỉ khoảng 5%.

 Nguồn: SSI Research.

Có sự lệch pha như vậy do trong môi trường vĩ mô thuận lợi, mặt bằng lãi suất ở mức thấp, các ngân hàng đã tranh thủ huy động trên thị trường liên ngân hàng cũng như vay hợp vốn phát hành trái phiếu. Credit suisse đã có rất nhiều thương vụ phát hành trái phiếu hợp doanh cho các ngân hàng lớn như VPBank hay Techcombank.

Ở bối cảnh hiện tại, khi đồng USD mạnh lên và lãi suất USD tăng theo, chi phí đi vay nước ngoài của các ngân hàng sẽ rất lớn, vì vậy họ quay trở lại vay vốn ở trong nước. Như vậy, áp lực tăng vốn huy động trong nước rất lớn kéo theo mặt bằng lãi suất huy động tăng theo vì có cuộc đua cạnh tranh về nguồn vốn.

Gần đây, NHNN đã nới trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn cũng kích hoạt những ảnh hưởng đến những kỳ hạn dài hơn. Trong khi đó lãi suất cho vay rất khó tăng vì room tín dụng được cấp rất dè dặt. Lượng room nới thêm không lớn khiến hoạt động cho vay khá trầm lắng, các ngân hàng không có điều kiện để tăng lãi suất cho vay một cách mạnh mẽ.

Nhìn chung, NIM của các ngân hàng có xu hướng thu hẹp từ quý III và quý IV/2022 và có thể xuyên suốt cả năm 2023. Điều này cũng không đáng ngạc nhiên khi cả năm 2020-2021, NIM đã mở rộng rất nhiều nên hiện tại có xu hướng đảo ngược chiều là hợp lý để về lại mặt bằng trước COVID-19.

Cũng theo ông Đức Anh, trong môi trường lãi suất cao, hai năm vừa qua rất nhiều ngân hàng đã đầu tư vào trái phiếu, cả trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ. Giá trị của trái phiếu đầu tư trong môi trường lãi suất cao khi định giá lại thì sẽ bị sụt giảm.

Theo chuẩn báo cáo VAS của Việt Nam đang áp dụng, con số lỗ về đầu tư trái phiếu sẽ không “hiện ra”, tuy nhiên theo chuẩn IFRS, khoản lỗ tính được của các ngân hàng về danh mục trái phiếu tương đối lớn.

Cụ thể, với IFRS, tất cả trái phiếu đến kỳ báo cáo tài chính phải đánh giá lại. Nếu nắm giữ đến ngày đáo hạn, ngân hàng sẽ ghi nhận sụt giảm giá trị tại bảng cân đối kế toán. Nếu để giao dịch, ngân hàng sẽ ghi nhận lãi lỗ ngay trong quý đó.

Tuy nhiên theo chuẩn VAS, chỉ có trái phiếu sẵn sàng để bán mới ghi nhận. Các NHTM có thể chuyển đổi giữa danh mục trái phiếu nắm giữ và trái phiếu sẵn sàng để bán, tức có nhiều “kẽ hở” để ngân hàng chủ động không ghi nhận lỗ ở danh mục trái phiếu.

Do đó, số lỗ thực tế mà chúng ta phải nhìn thấy được tương đối lớn, có danh mục trái phiếu kỳ hạn 10 năm có thể lỗ nhiều hơn nếu áp dụng lãi suất chiết khấu thêm 1%. Liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, chuyên gia dự báo từ quý IV năm nay sẽ bắt đầu có áp lực và lớn dần trong năm 2023 và 2024.

Phương Nga