Thủ phủ vải thiều mất mùa 'chưa từng có'
"Khắp quả đồi nhà tôi là màu đỏ ngàn của lộc non", anh Nông Văn Thứ ở thôn Bến, xã Cấm Sơn, Lục Ngạn chỉ vào khu vườn 250 gốc vải nói.
Vườn nhà anh trồng toàn bộ giống vải thiều, còn gọi vải chính vụ, vải muộn để phân biệt với loại sớm như u trứng, u hồng, Thanh Hà. Thông thường cuối tháng 12 âm lịch vải thiều bật hoa và đến cuối tháng Giêng nở bung.
Năm nay anh Thứ thấy vườn báo hoa từ tháng 12 nhưng khi mới bật lên được 1-2 cm gặp cơn mưa rét. Năm ngày sau anh ra thăm vườn thấy hoa héo, chạm nhẹ đã rụng. Suốt 10 ngày tiếp theo, hôm nào anh cũng tưới nước từ sớm tới tối muộn, song không thể cứu vãn.
Với diện tích này mọi năm gia đình anh thu được 8-9 tấn vải, trừ chi phí lãi được hơn 100 triệu đồng. Những năm mất mùa cũng thu được ít nhất hai tấn trở lên. "Hơn 20 năm trồng vải chưa có năm nào mất trắng như năm nay", anh nói.
Cùng xóm, 90% hộ trồng vải khác cũng trong tình cảnh tương tự. Nhà anh Nông Văn Trưởng, 45 tuổi với 200 gốc "không ra được một quả". Anh Ngân Văn Huy, 44 tuổi với 300 gốc chỉ "được vài cân".
Anh Huy cho biết hồi cuối năm đã nhìn thấy hoa vải nhưng chỉ sau một trận mưa rét cháy hết. Trận mưa đó hại đến nỗi quả mít đã to như cái cốc cũng thối đồng loạt.
"Từ lúc biết đến cây vải chưa bao giờ tôi thấy mất mùa như năm nay. Các thế hệ ông bà, bố mẹ cũng thừa nhận chưa thấy hiện tượng lạ này", anh nói.
Cách khoảng 30 km, xã Mỹ An, một trong những địa phương có diện tích trồng vải nhiều nhất Lục Ngạn cũng không khá hơn. "Tôi trồng vải 40 năm mà chưa năm nào tồi tệ thế này", ông Lê Văn Đại, 68 tuổi, thôn An Phú than thở. "Hồi Tết ai đến cũng chúc lộc, thế nên năm nay toàn lộc luôn".
Nhà ông có khoảng 500 gốc vải, trong đó chủ yếu vải thiều chính vụ, bên cạnh một ít diện tích trồng vải u và Thanh Hà. Một số nhà trong vùng vẫn được thu vải u hồng nhưng nhà ông "chỉ được vài sọt" và còn xấu mã.
Tại Hải Dương, địa phương có diện tích vải lớn thứ hai cả nước, cũng chung tình cảnh. Tầm này mọi năm gia đình chị Yến Thanh, 30 tuổi, ở xã Thanh Khê, huyện Thanh Hà rục rịch thu hoạch vải thiều. Trung bình mỗi vụ hơn một ha của gia đình cho thu hoạch khoảng chục tấn quả.
Nhưng năm nay gần 1.000 gốc mà không ra hoa, chỉ đâm chồi non. "Bà ngoại tôi bảo sống hơn 80 năm ở thủ phủ vải thiều nhưng đây là năm đầu tiên nhìn cả cánh đồng xanh rì", Thanh nói và cho biết gia đình đã tìm đủ cách để kích thích cây ra hoa, bón thêm phân nhưng chỉ tốt lá.
Theo ông Chu Văn Báo, Phó phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Lục Ngạn, địa phương có 17.300 ha trồng vải, trong đó đợt vải sớm đạt 70%, vải chính vụ đạt khoảng 20%-30%.
"Toàn huyện mất mùa chưa từng có", ông Báo nói.
Lý giải nguyên nhân, ông cho biết cây vải thiều chịu ảnh hưởng chặt chẽ bởi thời tiết, phải rét sớm, đúng thời điểm mới trổ hoa. Ngoài ra, từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 2 xuất hiện các đợt không khí lạnh ngắn, kèm theo mưa kéo dài, độ ẩm cao đã kích thích lộc, triệt tiêu hoa. Thời tiết phức tạp nên cùng một giống vải, có gia đình xử lý sớm hơn hoặc muộn hơn một vài ngày đã dẫn đến nhà được nhà mất.
Bên cạnh đó theo quy luật, sau khi được mùa 3 - 4 năm sẽ có một năm mất mùa, như các cụ nói "một năm ăn quả, một năm trả cành", trong khi vải thiều liên tiếp được mùa bốn năm qua.
Đại diện Phòng cây công nghiệp, cây ăn quả (Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết thêm vải là cây ăn quả có yêu cầu về nhiệt độ thấp và tương đối khô để phân hóa mầm hoa, ra hoa.
Vụ vải 2024, nền nhiệt độ trong những tháng cuối năm 2023 cao cao hơn 1,5 độ C so bình quân nhiều năm; các đợt rét đến muộn, kèm theo mưa nhỏ kéo dài, độ ẩm đất, độ ẩm không khí cao làm cho tỷ lệ ra hoa của vải thiều thấp. Ngoài vải chính vụ yêu cầu độ lạnh đạt chuẩn, các giống vải sớm ít chịu ảnh hưởng thời tiết hơn nên sản lượng năm 2024 không bị sụt giảm mạnh.
Hiện cả nước có trên 56.000 ha vải với các tỉnh trồng vải chủ yếu là Bắc Giang (29.600 ha), Hải Dương (8.800 ha), Lạng Sơn (1.400 ha), Hưng Yên, Quảng Ninh (1.300 ha). Theo báo cáo sơ bộ từ các địa phương, sản lượng vải năm 2024 đạt khoảng 200.000 tấn, giảm khoảng 50% so năm 2023. Trong đó Bắc Giang đạt khoảng 100.000 tấn (bằng 50% so năm trước), Hải Dương đạt khoảng 45.000 tấn (bằng 77% so năm trước). Riêng Hưng Yên chủ yếu trồng vải sớm nên sản lượng tương đương năm ngoái.
Ngay từ khi thấy thời tiết khó khăn, các cơ quan chuyên môn ở Lục Ngạn đã có các biện pháp kỹ thuật theo dõi tình hình cụ thể đối với từng diện tích. Ông Báo cho biết, đơn vị đã tuyên truyền nếu vải ra hoa rồi thì tưới nước đủ ẩm, bón phân vừa phải để giữ quả; chưa ra hoa tiếp tục tưới nước, kết hợp chế phẩm để kích ra hoa. Đến khi không ra hoa nữa thì khuyến cáo dọn vườn, cắt tỉa tùy theo từng thời điểm để chờ mùa mới.
Mất mùa ảnh hưởng lớn đến đời sống của bà con bởi với hầu hết gia đình trông chờ mùa vải. Từ khi thấy cây không ra hoa, nhiều hộ ở Lục Ngạn đã cho con em, vợ hoặc chồng đi công nhân hoặc làm thuê bên ngoài. Có những nhà đốn bỏ vườn vải bán củi để chuyển đổi cây trồng khác.
"Mọi năm hơn ha vải nhà tôi còn cho thu nhập khoảng 300 triệu đồng, nhưng năm nay không có đồng nào. 7 miệng ăn, một năm mà không có được 200 triệu đồng để chi tiêu cơ bản thì nguy", ông Lê Văn Đại than.
Suốt 50 năm làm nông dân, ông cho biết lúc nào cũng loay hoay trong bài toán "được mùa mất giá, được giá mất mùa". Như nhiều hộ khác, ruộng nương nhà ông đã chuyển hết sang trồng vải. Vào mấy năm giá vải 3.000-5.000 đồng/kg, ông đã chặt đi một phần diện tích chuyển qua trồng bưởi. Tuy nhiên, lúc nhà ông được thu hoạch bưởi thì thị trường cũng bão hòa, giá rẻ, thậm chí không bán được. Hai năm trước, một lần nữa nhà ông lại chặt bớt bưởi trồng vải mới.
Hiện các con gái, con dâu của ông đã đi làm công ty, đàn ông ở nhà trồng trọt, chăn nuôi và đi thợ xây. "Nhìn vườn mà não nề lắm", ông nói.
Bị tai nạn điện mất tay phải hơn 10 năm trước, anh Nông Văn Trưởng dựa vào 200 gốc vải để nuôi con. Từ lúc không ra hoa, vợ đi công nhân, còn anh làm lụng đơn giản ở nhà để tiện chăm sóc con. Gần đây người hàng xóm cho anh mượn rẫy keo để trồng xen ngô.
"Những ngày qua tôi cũng đang túc tắc trồng ngô và chăn nuôi thêm", anh nói.
Khi vải không ra hoa, anh cũng dừng lại đầu tư phân bón. Số phân lân nhả chậm không sử dụng tới cũng không thể trả lại công ty, đành để sang năm tới dùng dù lo ngại chất lượng lúc đó không còn tốt nữa. "Vẫn còn may là công ty phân cho các hộ nợ tới mùa vải năm sau mới phải trả, nếu không chẳng biết xoay thế nào", anh cho hay.
Hơn một ha vải thiều là nguồn thu nhập chính của gia đình chị Thanh nhưng năm nay mất trắng. Cả gia đình hơn chục miệng ăn giờ chỉ trông chờ vào vài chục gốc vải u hồng, u trứng cho quả sớm. Giá bán vải sớm cao hơn các năm trước, song tiền lãi bán vải sớm chỉ đủ trả phân bón, chăm sóc và nhân công.
"Nhà tôi ba đời trồng vải thiều, không có nguồn thu nào khác, nên giờ chưa biết phải làm thêm gì để có đồng ra đồng vào", người phụ nữ 30 tuổi nói.