|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Nhiều nhóm hàng xuất khẩu vào Đài Loan có nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại

07:48 | 30/08/2022
Chia sẻ
Việt Nam đứng thứ hai (sau Trung Quốc) với tổng cộng 15 báo cáo phản hồi hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan (Trung Quốc), chiếm 14,6% tổng số các báo cáo.

Thương vụ Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc cho biết Tổng hội Công nghiệp toàn quốc Đài Loan (Trung Quốc) (CNFI) vừa công bố Báo cáo điều tra hàng hóa uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan (Trung Quốc) năm 2022  

Báo cáo chủ yếu đề cập tới hàng nhập khẩu từ các đối tác, trong đó, Việt Nam đứng thứ hai (sau Trung Quốc) với tổng cộng 15 báo cáo phản hồi hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan (Trung Quốc), chiếm 14,6% tổng số các báo cáo.

Trong danh sách nhóm các mặt hàng nhập khẩu được coi là uy hiếp thị trường nội địa Đài Loan (Trung Quốc) có 12 nhóm mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam.

Bao gồm mặt hàng clinker dùng để sản xuất xi măng có mã CCC code: 25231090003; khăn, giấy lau tẩm cồn có mã CCC code: 38089420001; mặt hàng sợi bông đơn tự nhiên không chải kỹ, có tỷ trọng bông từ 85% trở lên có mã CCC code 52051100108; hàng xơ sợi polyester khác, chủ yếu hoặc chỉ được trộn với sợi bông nhân tạo (thương nhân gọi là chỉ sợi trắng SPUN T/R) có mã CCC Code 55095100004…

Ngoài ra là các mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng thiếc, có độ dày dưới 0,5 mm có mã CCC Code 72101200008; mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim (không lượn sóng) cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng kẽm; mặt hàng sắt hoặc thép không hợp kim cuộn cán phẳng được mạ hoặc tráng ô-xít crôm hoặc hỗn hợp crôm và oxit crôm có mã CCC Code 72105000001…

Sau khi báo cáo được công bố, CNFI khuyến nghị chính quyền Đài Loan - Trung Quốc đưa các mặt hàng vào hệ thống cảnh báo sớm, áp thuế chống bán phá giá và thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng nhập khẩu và tiến hành biện pháp cấp giấy phép nhập khẩu, tức là các nhà sản xuất Đài Loan - Trung Quốc phải đồng ý mới được phê duyệt nhập khẩu với một số nhóm hàng cụ thể.

Đối với nhóm hàng là các loại thùng tráng thiếc, CNFI khuyến nghị chính quyền Đài Loan - Trung Quốc ngoài thực hiện các biện pháp cứu phòng vệ thương mại cần tăng cường kiểm tra nhãn mác xuất xứ, tăng cường kiểm tra theo đợt, giám sát nghiêm ngặt việc khai báo trị giá hải quan, đồng thời đưa ra vào hệ thống giám sát cảnh báo sớm.

Đối với mặt hàng clinker xi măng, CNFI cho hay, các loại clinker xi măng (mã CCC 25231090003) nhập khẩu từ Thái Lan, Việt Nam và Indonesia đã bán giá thấp hơn mức 150-200 Đài tệ/tấn so với các nhà sản xuất nội địa để chiếm lĩnh thị trường. 

Trong đó, năm 2019 lượng nhập khẩu từ Thái Lan gần 345.300 tấn, thị phần gần 3% và tăng lên lên mức 443.930 tấn vào năm 2021, với thị phần là 3,4%. Trong khi đó, lượng nhập khẩu từ Việt Nam năm 2019 là 1,45 triệu tấn, thị phần hơn 12% và năm 2021 lượng nhập khẩu giảm còn khoảng 594.000 tấn, thị phần 4,5% nhưng các doanh nghiệp Đài Loan - Trung Quốc vẫn bị ảnh hưởng bởi giá bán thấp.

Ngoài ra, việc nhập hàng rời từ ba đối tác này cập cảng bốc dỡ lộ thiên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tăng chi phí xã hội.

CNFI đề nghị chính quyền Đài Loan–Trung Quốc áp thuế chống bán phá giá đối với các nhà nhập khẩu cạnh tranh với giá thấp; yêu cầu các nhà nhập khẩu sử dụng tàu chở hàng rời đặc biệt để giảm ô nhiễm; tiến hành kiểm tra việc dỡ hàng phát thải bụi và loại bỏ thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn.

Đồng thời tăng cường kiểm tra chất lượng, nhãn mác đối với xi măng nhập khẩu, tăng mức xử phạt đối với các sản phẩm không đạt chất lượng và yêu cầu Cục Quản lý thuế kiểm tra nghiêm việc trốn thuế hàng hóa.

Trên cơ sở thông tin từ Thương vụ Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc, Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) khuyến nghị Hiệp hội và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm như thép, clinker, sơ xợi và một số mặt hàng nêu trên rà soát lại các hoạt động sản xuất, xuất khẩu sang Đài Loan - Trung Quốc và theo dõi chặt chẽ các động thái của thị trường để kịp thời xây dựng phương án ứng phó trong trường hợp cần thiết.

 

Như Huỳnh