|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá cà phê hôm nay 9/11: Tiếp đà giảm, thấp nhất là 39.900 đồng/kg

07:17 | 09/11/2022
Chia sẻ
Giá cà phê hôm nay (9/11) duy trì mức giảm 400 đồng/kg, hiện về khoảng 39.900 - 40.500 đồng/kg tại các tỉnh trong nước. Trên thị trường thế giới, giá arabica kỳ hạn trên Sàn giao dịch New York giảm hơn 2% xuống mức 166,45 US cent/pound.

Cập nhật giá cà phê trong nước

Xem thêm: Giá cà phê hôm nay 10/11  

Theo khảo sát trên trang giacaphe.com vào lúc 7h15, giá cà phê hôm nay tiếp tục giảm 400 đồng/kg.

Hiện tại, thị trường nội địa đang ghi nhận khoảng giá 39.900 - 40.500 đồng/kg.

Trong đó, tỉnh Lâm Đồng giảm 400 đồng/kg về mức thấp nhất là 39.900 đồng/kg. Tiếp đến là Gia Lai với mức 40.400 đồng/kg sau khi giảm 400 đồng/kg.

Tương tự, sau khi giảm 400 đồng/kg, giá cà phê tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông cùng ở mức 40.500 đồng/kg trong hôm nay.

TT nhân xô

Giá trung bình

Thay đổi

FOB (HCM)

1.891

Trừ lùi: +60

Đắk Lắk

40.500

-400

Lâm Đồng

39.900

-400

Gia Lai

40.400

-400

Đắk Nông

40.500

-400

Tỷ giá USD/VND

24.692

+88

Đơn vị tính: VND/kg | FOB: USD($)/tấn

 

Diễn biến giá cà phê từ tháng 1 đến ngày 9/11. (Tổng hợp: Thảo Vy)

Cập nhật giá cà phê thế giới

Trên thị trường thế giới, giá cà phê đồng loạt giảm. Theo đó, giá cà phê trực tuyến robusta tại London giao tháng 1/2023 được ghi nhận tại mức 1.831 USD/tấn sau khi giảm 1,08% (tương đương 20 USD).

Giá cà phê arabica giao tháng 12/2022 tại New York đạt mức 166,45 US cent/pound, giảm 2,4% (tương đương 4,1 US cent) tại thời điểm khảo sát vào lúc 7h15 (giờ Việt Nam).

Ảnh: Thảo Vy

Ở Ấn Độ, sản lượng cà phê thấp trong khi chi phí sản xuất đang tăng so với các nước sản xuất cà phê hàng đầu khác. Điển hình như tại Brazil, phí nhân công chiếm 25% trong tổng chi phí sản xuất, nhưng ở Ấn Độ, con số này lên đến 65%.

Ấn Độ có thể giảm chi phí sản xuất ở một mức độ nào đó thông qua cơ giới hóa, nhưng điều kiện địa hình của các vùng trồng cà phê tại Ấn Độ hạn chế khả năng này. Trong khi các nước khác trồng cà phê ở những vùng đất bằng phẳng, thì Ấn Độ trồng cà phê trong bóng râm và ở khu vực cao nguyên.

Chi phí đầu vào cao dẫn đến giá thành sản xuất cao, khiến cho việc canh tác cà phê của nông dân tại quốc gia Nam Á này trở nên khó khăn hơn. Trước đây, chi phí sản xuất sẽ tăng trung bình 4% đến 5% hàng năm, nhưng hiện nay nó đã tăng ít nhất 20% hàng năm.

Ngoài ra, ngành cà phê Ấn Độ còn chứng kiến sự thiếu hụt nguồn lao động trong khi chi phí nhân công đang gia tăng. Các đồn điền hiện phải phụ thuộc nhiều vào lao động nhập cư không có tay nghề, đồng nghĩa với việc phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho việc đào tạo lao động.

Xét về mặt thương hiệu, cà phê Ấn Độ vẫn đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nhận diện trên thị trường toàn cầu, mặc dù nước này đã bắt đầu tích cực xuất khẩu cà phê từ trước thế kỷ XIX.

Việc Ấn Độ bán robusta và arabica với giá cao hơn colombia được quảng bá rầm rộ là dấu hiệu cho thấy việc xây dựng thương hiệu được thực hiện bởi nhà xuất khẩu Ấn Độ và các đặc tính nổi trội về mặt chất lượng của cà phê Ấn Độ.

Tuy nhiên, cà phê Ấn Độ không có một thương hiệu riêng biệt trên thị trường quốc tế và chưa bao giờ được coi là một loại cà phê có xuất xứ riêng biệt mà vẫn luôn được sử dụng làm chất độn.

Con đường phía trước mà ngành cà phê Ấn Độ có thể đi đó là, một mặt tìm kiếm các nguồn thu thay thế và tăng tiêu thụ nội địa, mặt khác là xây dựng thương hiệu và quảng bá cà phê của mình tốt hơn trên thị trường toàn cầu.

Song song đó, người trồng nên tạo thêm các dòng doanh thu thông qua việc xen canh hoặc thông qua các biện pháp cải tiến. Ngoài việc trồng xen truyền thống giữa hồ tiêu và thảo quả, người trồng cà phê có thể thử trồng các loại cây ăn quả lạ, cây lương thực hoặc tham gia nuôi cá, chăn nuôi bò sữa, trồng rừng hoặc du lịch xanh để tăng thu nhập từ vườn cà phê của mình.

Hơn nữa, chính phủ Ấn Độ có thể xem xét sự thay đổi trong việc sử dụng đất, cho phép người nông dân trồng cây xen kẽ trên vùng đất không thích hợp cho việc trồng cà phê. Việc chuyển đổi kịp thời sẽ giúp người trồng không gặp khó khăn về mặt tài chính, theo trang Civils Daily.

Thảo Vy

Vàng, đô và lãi suất: Ý nghĩa như thế nào với kinh tế Việt Nam?
Tỷ giá USD/VND đã tăng 4,5% so với đầu năm, cao hơn 1% so với mức mất giá bình quân dưới 3,5% trong gần 1 thập kỷ. Điều này đã gây sức ép lớp lên các nhà điều hành phải đưa ra một loạt các chính sách kết hợp nhằm ngăn chặn sự giảm giá của đồng VND, tạo ra những tác động nhất định lên thị trường tài chính.