Cuộc cách mạng cà phê thầm lặng tại Việt Nam
Cơ Liêng Rolan bước chậm trong nhà kính, kiểm tra những hạt cà phê nâu vàng đã được phơi trên giàn lưới hàng tháng trời. Cô lấy một vài hạt và ngửi mùi. Không bao lâu nữa, những hạt cà phê này sẽ sẵn sàng để nghiền, rang và bán khắp Việt Nam cũng như xuất ngoại sang Nhật Bản và Đức.
Cơ Liêng Rolan xuất thân từ gia đình có truyền thống trồng cà phê thuộc cộng đồng người K’Ho. Họ đã sinh sống dưới chân núi Lang Biang tại Đà Lạt hàng trăm năm qua. Cha mẹ của Rolan tiếp nối nghề trồng cà phê của ông bà Rolan – những người đã nhận hạt giống cà phê Arabica từ những du khách người Pháp vào những năm đầu thập niên 20 thế kỷ trước.
Rolan “phải lòng” cà phê từ khi còn rất nhỏ. “Khi tôi lớn lên, mỗi buổi sáng trước khi đi nhà thờ lúc 4 giờ, cha mẹ tôi thường uống Nescafé. Mùi hương thật sự cuốn hút tôi, mùi thơm ngào ngạt và béo ngậy. Khi họ đã đi khỏi nhà, tôi luôn ngửi những cái tách và tìm cách nếm cà phê bằng tay”, Rolan nói với hãng tin Deutsche Welle.
![]() |
Cơ Liêng Rolan xuất thân từ gia đình có truyền thống trồng cà phê và muốn nâng cao danh tiếng của hạt cà phê Việt. Nguồn: Katharina Wecker/Deutsche Welle. |
Ngày nay, cô đã biến niềm đam mê của mình thành công việc kinh doanh. Cùng với các thành viên khác của cộng đồng người K’Ho, Rolan đã thành lập một hợp tác xã với mục tiêu nâng cao danh tiếng của hạt cà phê Việt Nam, trong khi vẫn lưu giữ được truyền thống cộng đồng.
Là dân tộc thiểu số lâu đời nhất tại phía nam Tây Nguyên, người K’Ho nổi tiếng với kho văn hóa dân gian giàu có với các nhạc cụ làm từ tre và sừng trâu. Từng một thời du cư, phần lớn trong số 170 nghìn người K’Ho hiện nay đã định cư và kiếm sống bằng nghề trồng lúa và cà phê, cũng như bán đồ thủ công mỹ nghệ.
Chuyện về hai hạt cà phê
Việt Nam là quốc gia trồng cà phê lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Brazil. Tuy nhiên, những người sành cà phê thường không mặn mà với các loại cà phê trong nước, hoặc thậm chí không hề biết đến chúng.
Đó là vì hạt cà phê Robusta chiếm đến 95% sản lượng cà phê của Việt Nam. Cà phê Robusta dễ trồng hơn Arabica nhưng lại bị cho là thua kém về chất lượng vì có nhiều caffeine hơn và có vị đắng hơn, ông Denis Seudieu – chuyên gia kinh tế trưởng tại Tổ chức Cà phê Quốc tế (IOC) thuộc Liên Hiệp Quốc, cho biết.
“Thị trường và người tiêu dùng thích hương vị của hạt cà phê Arabica hơn. Chính vì vậy, Robusta phần lớn được chế biến thành cà phê hòa tan. Về mặt tiếp thị, thật không phải một thông điệp hay khi nói cà phê của bạn là Robusta, đó là lý do không có nhiều quảng cáo về cà phê Việt Nam”, ông Seudieu nói với Deutsche Welle.
![]() |
Cao nguyên Lang Biang có thổ nhưỡng lý tưởng để trồng cà phê Arabica. Nguồn: Katharina Wecker/Deutsche Welle. |
Cho đến thập niên 90 của thế kỷ trước, vẫn không có nhiều hỗ trợ tài chính để khuyến khích người dân bỏ cây cà phê Robusta vì chính phủ Việt Nam khi đó mua lại toàn bộ số hạt cà phê với cùng mức giá. Khi thị trường tư nhân mở cửa, điều đó đã thay đổi.
Người K’Ho bắt đầu trồng xen kẽ cà phê Robusta và Arabica. Tuy nhiên, để “đánh thức” thế giới bằng hương vị cà phê Việt và tạo ra thu nhập tốt hơn, họ đã chuyển hẳn sang trồng cà phê Arabica.
Hạt cà phê được ‘chăm bón’ bằng tình yêu
Cao nguyên Lang Biang là nơi có loại đất màu mỡ, rất thích hợp cho cà phê Arabica – loại cà phê càng phát triển tốt khi càng lên cao. Tại đây, các nông dân K’Ho chăm sóc 30 ha cây cà phê được trồng hoàn toàn theo phương pháp hữu cơ, mà theo cách họ nói là “tự nhiên”.
“Chúng tôi xử lý và chăm sóc cây cà phê theo cách tự nhiên của mình. Chúng tôi không dùng bất kỳ hóa chất nào mà chỉ dùng phân hữu cơ ủ từ thức ăn thừa và trồng nhiều loại cây khác nhau xem giữa các cây cà phê để tạo bóng mát và cung cấp ôxy”, Cơ Liêng Rolan chia sẻ.
Khi đến mùa thu hoạch, cả làng sẽ cùng đi hái những trái cà phê đỏ, chín mọng. Những hạt cà phê này được xay vỏ và lên men để loại bỏ phần thịt bên ngoài trước khi được phơi khô trong vài tuần. Sau đó, người K’Ho sẽ kiểm tra bằng mắt để loại bỏ những hạt hỏng.
Công việc thu hoạch đòi hỏi nhiều công sức và mỗi hạt cà phê đều quý giá đối với cộng đồng nơi đây. Một người phụ nữ K’Ho sẽ nhặt bất kỳ hạt cà phê nào rơi ra khi đang thổi hạt – phương pháp truyền thống để tách hạt với vỏ.
![]() |
Người K'Ho dùng phương pháp thổi hạt để tách vỏ và hạt cà phê. Nguồn: Katharina Wecker/Deutsche Welle. |
Những hạt cà phê sạch vỏ được bán trực tiếp cho khách hàng Việt Nam, Nhật Bản và Đức. Tuy nhiên, người K’Ho cũng tự rang cà phê. Đây không phải một cách làm lạ với người trồng cà phê Việt Nam – những người thường bán hạt cà phê thô cho các công ty cà phê lớn để sản xuất cà phê hòa tan.
Ra đời vào năm 2012, hợp tác xã giờ đây hỗ trợ hơn 60 hộ gia đình bán cà phê và đồ thủ công mỹ nghệ cũng như phát triển du lịch. Toàn bộ lợi nhuận được tái đầu tư vào làng. Những người đàn ông và phụ nữ, từng một thời bỏ làng lên thành phố tìm việc, giờ có thể ở lại cộng đồng của mình, Rolan cho biết.
Từ Đà Lạt đến Berlin
Cách đó hơn 9.000 km, một xưởng rang cà phê tại thủ đô Berlin đang truyền tai nhau câu chuyện về hạt cà phê của người K’Ho.
Gần ba năm trước, Nguyễn Ngọc Đức mở xưởng rang cà phê HAN Coffee Roasters trong thành phố. Vì là người Việt nên Đức cho biết mình cảm thấy không đúng khi bán cà phê Ý trong khi nước nhà là nơi trồng cà phê hàng đầu thế giới. Vì thế, anh quyết định bán cà phê Việt Nam. Tuy nhiên, mọi thứ lúc đầu không mấy dễ dàng.
![]() |
Những người K'Ho từng một thời du cư, giờ đã ổn định cuộc sống với nghề trồng lúa và cà phê. Nguồn: Katharina Wecker/Deutsche Welle. |
“Tôi không thể tìm thấy hạt cà phê Arabica chất lượng cao tại Việt Nam và tôi sắp bỏ buộc. Thế rồi, tại một quán cà phê đặc sản tại TP Hồ Chí Minh, có người kể tôi nghe về cà phê của dân tộc K’Ho ở Đà Lạt”, anh Đức chia sẻ với Deutsche Welle.
Anh đã thử loại cà phê này và thật sự ấn tượng với chất lượng của nó cũng như dự án của cộng đồng K’Ho. “Một lý do khác khiến tôi thích loại cà phê này là, người K’Ho là dân tộc thiểu số và là một phần di sản văn hóa của chúng tôi. Cơ Liêng Rolan đã cho ta thấy một phần đời sống của cộng đồng thiểu số ở Việt Nam”, anh Đức nói.
Anh tin rằng ngày càng sẽ có nhiều người trồng cà phê Việt Nam chuyển sang trồng cà phê Arabica khi họ nhận ra nó có thể giúp họ có thu nhập tốt hơn. Và cộng đồng dân tộc K’Ho tại nam Tây Nguyên đã tiên phong “mở đường”.