Cần tới 400.000 tỷ đồng phát triển hệ thống sân bay đến năm 2030
Đáng chú ý, tại tờ trình này, nguồn vốn đề đầu tư phát tiển mạng sân bay của cả nước cho giai đoạn đến năm 2030 là 400.000 tỷ đồng.
Cụ thể, tại dự thảo quy hoạch mới nhất vừa được Bộ Giao thông Vận tải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt có cập nhật một số nội dung trong thông báo kết luận của Thủ tướng Phạm Minh Chính ngày 24/12 tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Trong quy hoạch lần này, Bộ Giao thông Vận tải đặt mục tiêu đến năm 2030, tổng sản lượng hành khách thông qua các sân bay khoảng 275,9 triệu hành khách và khoảng 4,1 triệu tấn hàng hóa
Được biết, công suất của các sân bay hiện nay mới đạt 95 triệu hành khách/năm, so với mục tiêu quy hoạch là 144 triệu hành khách/năm, đạt 66%; phục vụ vận tải hàng hóa đạt 1 triệu tấn/năm, so với mục tiêu là 2,5 triệu tấn hàng hóa/năm, đạt 40%.
Trong khi đó, tổng vốn đầu tư cho hạ tầng hệ thống sân bay giai đoạn 2011-2020 khoảng 95.000 (vốn ngân sách nhà nước khoảng 11.900 tỷ đồng, vốn ngoài ngân sách nhà nước hơn 83.100 tỷ đồng), đạt khoảng 60% nhu cầu vốn đầu tư.
Lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải cho biết, trong 10 năm tới sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số sân bay lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội như: Nội Bài và vùng TP HCM như: sân bay Tân Sơn Nhất, Long Thành; từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 sân bay hiện có, đầu tư 6 sân bay mới (Long Thành, Nà Sản, Lai Châu, Sa Pa, Quảng Trị, Phan Thiết) để nâng tổng số sân bay của cả nước đưa vào khai thác lên 28 sân bay, tổng công suất thiết kế đáp ứng khoảng 283 triệu hành khách,đảm bảo trên 95% dân số có thể tiếp cận tới sân bay trong phạm vi 100km.
Theo tính toán, diện tích đất sử dụng dự kiến của quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 20.378 ha, nhu cầu diện tích đất cần bổ sung thêm khoảng 7.970 ha.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 khoảng 400.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 22% nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành), được huy động nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Tầm nhìn đến năm 2050, theo quy hoạch, sẽ hình thành 2 trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế mang tầm cỡ khu vực tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng TP HCM. Đầu tư đưa vào khai thác các sân bay mới đảm bảo 100% dân số đối với đồng bằng và 95% dân số đối với miền núi có thể tiếp cận tới sân bay trong phạm vi 100km.
Dựa trên 6 tiêu chí chính và 22 tiêu chí cụ thể về quy hoạch sân bay mới, các vị trí sân bay mới cần đạt tối thiểu 40/100 điểm mới đưa vào quy hoạch, Bộ Giao thông vận tải đề xuất cụ thể cho từng giai đoạn.
Thời kỳ 2021-2030, hình thành 28 sân bay bao gồm 14 sân bay quốc tế (Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 14 sân bay quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo);
Tiếp tục duy trì vị trí quy hoạch sân bay quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng phê duyệt vào năm 2011 tại huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng; nghiên cứu, khảo sát và báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định việc bổ sung quy hoạch, xây dựng sân bay tại các đảo như Lý Sơn, Phú Quý..., quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tầm nhìn đến năm 2050, hình thành 31 sân bay, bao gồm 14 sân bay quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc); 17 sân bay quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Cát Bi, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo và sân bay thứ 2 phía Đông Nam Thủ đô Hà Nội). Hình thành một số sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Về định hướng đầu tư, theo Bộ Giao thông Vận tải, đối với các dự án quy hoạch đầu tư sau năm 2030, trường hợp các địa phương có nhu cầu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và huy động được nguồn lực, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đầu tư sớm hơn.
Với hoạt động hàng không chung và hoạt động hàng không dân dụng không thường lệ được khai thác theo hướng tập trung tại các sân bay chuyên dùng và các sân bay có quy mô nhỏ để tìm kiếm, phát triển thị trường hàng không, nâng cao hiệu quả khai thác; hạn chế khai thác hoạt động hàng không chung tại các sân bay có mật độ cất hạ cánh cao.
Với định hướng phát triển sân bay chuyên dùng, theo Bộ Giao thông Vận tải để đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, các địa phương chủ động quy hoạch vị trí các sân bay chuyên dùng trong quy hoạch tỉnh sau khi được Bộ Quốc phòng phê duyệt vị trí và địa phương chủ trì huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện.
Theo số liệu của Bộ Giao thông Vận tải, hiện cả nước đang khai thác 22 trong số 23 sân bay theo quy hoạch. Trong đó có 9 sân bay quốc tế gồm Nội Bài, Vân Đồn, Cát Bi, Phú Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc.
Trong đó có 13 sân bay quốc nội gồm: Điện Biên, Thọ Xuân, Vinh, Đồng Hới, Chu Lai, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Liên Khương, Cà Mau, Rạch Giá và Côn Đảo. Còn sân bay Phan Thiết đang triển khai đầu tư.
Hệ thống 22 sân bay của Việt Nam hiện nay được đánh giá phân bố tương đối hài hòa, hợp lý, đảm bảo 86% dân số tiếp cận sân bay trong bán kính 100km, cao hơn mức trung bình của thế giới là 75%, tương đương với các nước có độ phủ lớn trong khu vực và trên thế giới…