|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Rủi ro của sự phụ thuộc vào nguồn dược phẩm từ Trung Quốc

06:46 | 02/05/2020
Chia sẻ
Khi đại dịch COVID-19 bùng phát ở Trung Quốc, các nước phương Tây giờ đây phải đối mặt với thách thức làm thế nào để giành lại quyền chủ động về dược phẩm, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc.
Rủi ro của sự phụ thuộc vào nguồn dược phẩm từ Trung Quốc - Ảnh 1.

Công nhân may khẩu trang để cung ứng cho người dân tại một nhà máy ở Saint-James, Pháp ngày 22/4/2020.Ảnh: AFP/TTXVN

Trong những năm 1990, hoạt động của ngành công nghiệp dược phẩm châu Âu và Mỹ đa phần chuyển sang Trung Quốc.

Khi đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 bùng phát ở Trung Quốc, các nước phương Tây giờ đây phải đối mặt với thách thức làm thế nào để giành lại quyền chủ động về dược phẩm, tránh phụ thuộc vào Trung Quốc.

Sự thống trị của ngành dược Trung Quốc

Có một điều các nhà khoa học, giới chuyên môn phần nào đã nắm rõ, nhưng đa phần công chúng thì chưa biết, đó là trong vòng chưa đến 30 năm, tất cả các quốc gia trên thế giới, đi đầu là châu Âu và Mỹ, đã “nhường” một phần lớn “chủ quyền” về thuốc men và trang thiết bị y tế cho Trung Quốc.

Quốc gia rộng lớn này trở thành xưởng bào chế hơn 80% hoạt chất chính được dùng trong ngành sản xuất dược phẩm. Trung Quốc cũng nắm giữ 80-90% dược liệu để bào chế ra các hoạt chất chính và các loại thuốc thay thế các dược phẩm hiện không còn được bào chế nữa.

Cụ thể, Trung Quốc sản xuất tới 97% dược liệu và hóa chất cần thiết để sản xuất kháng sinh đồng dạng (generique) tiêu thụ tại Mỹ - đối thủ địa chính trị của Trung Quốc.

Ấn Độ cũng là một nhà sản xuất dược phẩm được hưởng lợi lớn từ chính sách di dời ngành công nghiệp dược phẩm của phương Tây, song nền sản xuất của Ấn Độ cũng phụ thuộc đến 80% vào hoạt chất chính do Trung Quốc bào chế.

Chuyên gia Rosemary Gibson, thuộc Viện Hastings (Mỹ) nhận định số liệu thống kê về lĩnh vực dược phẩm thường được bao phủ bằng một bức màn bí mật. Tuy nhiên, việc khan hiếm các loại thuốc quan trọng vào lúc nhiều nhà máy của Trung Quốc phải ngừng hoạt động, khiến chính phủ các nước yêu cầu phải có các số liệu chính xác.

Các nhà lãnh đạo Pháp, Nga và Mỹ dường như đều có chung yêu cầu khôi phục lại nền sản xuất dược phẩm và công nghiệp hóa học của quốc gia. Các nước này cũng bắt đầu suy tính đến việc đa dạng hóa và “hồi hương” các dây chuyền sản xuất quan trọng.

Ông Bruno Bonnemain, chủ tịch một nhóm làm việc về việc gián đoạn chuỗi cung ứng, cho biết tại Viện Dược phẩm Quốc gia Pháp, từ 10 năm nay, các nhà nghiên cứu đã gióng những hồi chuông báo động về việc Pháp mất quyền tự chủ về dược phẩm do phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và Ấn Độ.

Theo chuyên gia Bonnemain, ngay từ năm 2011 cơ quan này đã được huy động để tiến hành một nghiên cứu cho Bộ Y tế Pháp.

Theo báo cáo của Viện Dược phẩm Quốc gia Pháp, “đối với 86% bệnh viện ở châu Âu, việc khan hiếm thuốc đã trở thành một chủ đề gây lo ngại hàng ngày. Những loại thuốc đáng lo ngại nhất là thuốc chống nhiễm trùng, chống ung thư, tiếp theo đó là các loại thuốc hồi sức cấp cứu, thuốc tim mạch và thuốc gây mê.

Chiến lược sản xuất dược phẩm yếu kém

Nhu cầu cao của các nước mới nổi khiến nhu cầu thuốc trên toàn cầu khó được đáp ứng. Ngoài ra, còn phải kể đến việc nhiều nhà máy phải ngừng sản xuất vì các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, môi trường, kỹ thuật hay xã hội. Bên cạnh đó là các vụ tai tiếng về chất lượng thuốc.

Trong những năm 1980, ngành công nghiệp dược phẩm của châu Âu vẫn rất mạnh. Khoảng 80% các hoạt chất chính vẫn được sản xuất tại châu Âu, chỉ 20% được nhập từ nước ngoài. Vậy mà sau 30 năm, các con số này hiện đã bị đảo ngược.

Ông Bonnemain nhấn mạnh, sự thay đổi lớn bắt đầu diễn ra trong những năm 1990, sau đó tăng tốc vào đầu những năm 2000, khi các doanh nghiệp quyết định dịch chuyển ồ ạt vì chi phí nhân công và các quy định về môi trường.

Kế hoạch ban đầu là tất cả đều được sản xuất tại một nơi. Thế nhưng, với sự cạnh tranh của thuốc đồng dạng generique được sản xuất tại các nước đang phát triển, ngành dược phẩm đã thuê thầu phụ cả mảng sản xuất dược liệu thô, hoạt chất và kể cả thuốc.

Đó là thời đại toàn cầu hóa theo kiểu đôi bên cùng có lợi, cho phép một số doanh nghiệp cất cánh và những công ty khác sản xuất với giá thấp.

Từng hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp dược phẩm, ông Bonnemain cho rằng sai lầm lớn nhất của các chính phủ là không coi dược phẩm là sản phẩm chiến lược: “khi ưu tiên giá thành, họ đã để các doanh nghiệp muốn làm gì thì làm. Quyền tự chủ đã bị từ bỏ”.

Đã có thời kỳ nước Đức, chứ không phải Trung Quốc, được gọi là nhà máy dược phẩm và hóa chất của cả thế giới. Nhận định về việc các doanh nghiệp Đức dịch chuyển các nhà máy dược phẩm, Giáo sư Stefan Laufer, từng là Chủ tịch Hiệp hội Dược sĩ Quốc gia Đức cho đến tháng 12/2019, có cùng phân tích như chuyên gia Pháp Bruno Bonnemain.

Sự thay đổi cũng bắt đầu từ đầu những năm 1990, và sự di chuyển nền sản xuất sang châu Á và đặc biệt là tới Trung Quốc cũng diễn ra từ 10 năm nay.

Ông Laufet tóm lược, do áp lực từ các cơ quan bảo hiểm y tế Đức, thuốc trở thành một sản phẩm mà tiêu chí quan trọng nhất là giá thành chứ không phải chất lượng. Theo ông, yếu tố môi trường là một lý do lớn dẫn đến việc dịch chuyển ngành hóa học hữu cơ, vốn có lợi cho ngành công nghiệp hóa dược phẩm rất phát triển của Đức.

Giáo sư Laufer nhấn mạnh, Đức đã quá đề cao giá trị thị trường toàn cầu khi cho rằng không cần nghĩ tới sự độc lập dược phẩm của quốc gia bởi thị trường luôn được đáp ứng.

Nhưng vào thời điểm hiện nay, không có thị trường toàn cầu mà nước nào cũng đóng cửa biên giới và đấu đá nhau để giành giật khẩu trang và thuốc men.

Cũng giống như chuyên gia Pháp Bonnemain, Giáo sư Đức Laufer đã gióng những hồi chuông báo động ngay từ năm 2012. Dân biểu Đức Claudia Bernhard, thuộc đảng Die Linke, một người lưu tâm đến hồ sơ này, giải thích rằng sự thiếu phản ứng của các cơ quan công quyền là do sự tác động của các nhà vận động hành lang cho ngành dược phẩm.

Nhà máy sản xuất thuốc kháng sinh cuối cùng tại Đức đã đóng cửa vào năm 2017. Nhà nước cần cho tái thiết nền công nghiệp dược phẩm và quay lại bào chế các hoạt chất chính. Dân biểu Claudia Bernhard lấy làm mừng vì lãnh đạo y tế ở các bang của Đức cũng đề xuất theo hướng này.

Sự thức tỉnh

Liên quan đến nước Nga, một nhà tư vấn của hãng tin RNC Pharma, Nikolai Bespalov, cho biết một cuộc di dời tương tự những gì đến với phương Tây, đã xảy ra sau khi Liên Xô tan dã, tạo ra sự phụ thuộc mạnh mẽ vào Trung Quốc và Ấn Độ (về các hoạt chất và dược liệu thô, 50-70%).

Kể từ năm 2010, một nỗ lực dịch chuyển sản xuất về nước đã được khởi động và Chính phủ Nga hồi cuối tháng Hai đã quyết định thúc đẩy sản xuất trong ngành hóa chất và dược phẩm.

Nhìn sang nước Mỹ, theo Le Figaro, đại dịch COVID-19 đã dẫn đến sự tỉnh thức đầy đau đớn khi người Mỹ nhận ra sức khỏe của họ phụ thuộc vào “đối thủ” Trung Quốc như thế nào.

Dù Mỹ vẫn duy trì sản xuất những hoạt chất chính và các nhà máy vẫn bào chế dược phẩm, nhưng Trung Quốc vẫn thống trị thị trường Mỹ về dược liệu và các hoạt chất chính để sản xuất thuốc. Tình trạng này tạo ra sự suy yếu chiến lược nghiêm trọng cho nước Mỹ.

Trong một báo cáo của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, nhà nghiên cứu Yang Zong Yuhan nhắc tới việc nhà kinh tế trưởng Gary Cohn của Nhà Trắng lưu ý là trong cuộc chiến thương mại, Trung Quốc có thể dùng thuốc kháng sinh để đáp trả Mỹ vì Trung Quốc cung cấp tới 97% lượng kháng sinh tiêu thụ tại Mỹ.

Tân Hoa xã ngày 4/3 nhận định kịch bản Trung Quốc ngừng xuất khẩu thuốc men sang Mỹ sẽ gây khó khăn cho Mỹ, “nhấn chìm nước Mỹ trong đại dương COVID-19”.

Nhiều nhà chiến lược Mỹ có ý tưởng tách rời nền kinh tế Mỹ khỏi Trung Quốc. Tại Hạ viện, một nhóm nghị sĩ đảng Dân chủ và Cộng hòa đề xuất một dự luật nhằm khuyến khích việc “hồi hương” một số dây chuyền sản xuất thuốc.

Tuy nhiên, tất cả các chuyên gia về hồ sơ này đều lưu ý về những khó khăn liên quan đến thời hạn, chi phí, kiến thức hiểu biết để tái lập nền sản xuất.

Chuyên gia Đức Laufer cho rằng việc này sẽ phải mất nhiều năm, các quy trình sản xuất hóa học tinh khiết rất phức tạp, nhất là phải sáng chế ra các công nghệ riêng để đảm bảo tôn trọng tiêu chuẩn xanh.

Việc này đương nhiên sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nước châu Âu, bởi vì các nước không thể sản xuất toàn bộ chỉ trong nước họ. Tất cả những điều trên đòi hỏi có sự thay đổi thực sự trong tư duy”.