|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

CPI tháng 2 tăng 0,45% so với tháng trước do giá xăng dầu, giá nhà ở tăng sau Tết

09:28 | 28/02/2023
Chia sẻ
Trong hai tháng đầu năm 2023, lạm phát cơ bản bình quân tăng 5,08% so với bình quân cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,6%).

Theo báo cáo của Tổng Cục Thống kê (GSO), chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2/2023 tăng 0,45% so với tháng trước. Nguyên nhân chính là giá xăng dầu, giá gas trong nước tăng theo giá nhiên liệu thế giới; giá nhà ở thuê tiếp tục tăng do nhu cầu tăng cao sau dịp Tết Nguyên đán.

CPI tháng 2 tăng 0,97% so với tháng 12/2022 và tăng 4,31%so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 2 qua các năm

 Nguồn: GSO.

Lạm phát cơ bản là CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.

Lạm phát cơ bản tháng 2 tăng 0,25% so với tháng trước, tăng 4,96% so với cùng kỳ năm trước. Trong hai tháng đầu năm 2023, lạm phát cơ bản bình quân tăng 5,08% so với bình quân cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,6%).

Nguyên nhân chủ yếu do giá xăng dầu từ tháng 7/2022 đến tháng 12/2022 giảm là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng CPI chung thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.

Trong giỏ hàng hoá tháng 2, có 5 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 6 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.

Cụ thể, nhóm giao thông có mức tăng cao nhất, tăng 2,11% chủ yếu do giá xăng, dầu tăng 5,66% (làm CPI chung tăng 0,2 điểm %) do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu vào ngày 13/2/2023 và 21/2/2023.

Bên cạnh đó, giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 2,58%, trong đó giá dịch vụ vận tải hành khách bằng đường sắt tăng 32,92%; dịch vụ vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 6,63% do nhu cầu đi lại trong tháng Tết tăng cao.

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,81% do giá gas tăng 14,56%, từ ngày 1/2/2023, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 63.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới tăng 192,5 USD/tấn (từ mức 597,5 USD/tấn lên mức 790 USD/tấn); giá điện sinh hoạt tăng 1,12% ; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,99%; giá thuê nhà tăng 0,28%. Ở chiều ngược lại, giá dầu hỏa giảm 1%; giá nước sinh hoạt giảm 2,06% . 

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,12%, tập trung ở giá nhóm đồ trang sức tăng 0,78% theo giá vàng trong nước; túi xách, vali, ví tăng 0,2%; vật dụng và dịch vụ về cưới hỏi tăng 0,47%. Ở chiều ngược lại, dịch vụ cắt tóc, gội đầu giảm 0,17% so với tháng trước.

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09%. Trong đó, giá máy giặt tăng 0,46%; máy đánh trứng, máy trộn đa năng tăng 0,35%; lò vi sóng, lò nướng, bếp từ tăng 0,35%; nồi cơm điện tăng 0,33%; bàn là điện tăng 0,26%. Ở chiều ngược lại, giá máy điều hòa nhiệt độ giảm 0,31%; máy in, máy chiếu, máy quét giảm 0,26%; chăn, màn, gối giảm 0,24%; đồ nhôm, inox giảm 0,15%. 

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%.

6 nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm nhóm giáo dục giảm 0,57% (làm CPI chung giảm 0,04 điểm %), nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,17% (làm CPI chung giảm 0,05 điểm %), nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,12%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,1%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,08%; Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,02%.

 

 

Diệp Bình