Dòng chảy gạo Việt thay đổi sau khi Ấn Độ gỡ bỏ cấm xuất khẩu
Biến động mạnh trong cơ cấu thị trường xuất khẩu
Là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, quyết định mở cửa hoàn toàn hoạt động xuất khẩu gạo của Ấn Độ đã tạo áp lực lớn lên các nhà sản xuất và giá bán.
Tính đến ngày 24/3, giá gạo xuất khẩu 5% tấn của ba nước Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan đang ở mức đáy ít nhất kể từ năm 2023, giao dịch quanh mức 400 USD/tấn. So sánh với mức kỷ lục thiết lập vào đầu năm ngoái, giá gạo của Việt Nam và Thái Lan giảm lần lượt 37% và 40%, còn Ấn Độ giảm khoảng 27%.

Nguồn: Hiệp hội Lương thực Việt Nam (Hoàng Hiệp tổng hợp)
Giá gạo giảm sâu cũng là yếu tố chính khiến “dòng chảy” gạo Việt Nam sang các thị trường có sự thay đổi lớn, đặc biệt là Indonesia. Trong nhiều năm, Indonesia đóng vai trò là thị trường nhập khẩu gạo truyền thống của Việt Nam. Năm ngoái, nước này đứng thứ hai trong số các thị trường nhập khẩu nhiều gạo nhất từ Việt Nam (sau Philippines) với gần 1,3 triệu tấn, tăng 8% so với năm 2023.
Tuy nhiên, hai tháng đầu năm năm nay có sự đảo chiều mạnh khi lượng gạo xuất khẩu sang Indonesia giảm đột ngột tới 95% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 10.691 tấn. Với kết quả này, Indonesia tụt xuống vị trí số 9 các thị trường nhập khẩu nhiều gạo Việt Nam nhất.

Nguồn: Tổng Cục Hải quan (H.Mĩ tổng hợp)
Kể từ khi Ấn Độ bắt đầu nới lỏng các biện pháp xuất khẩu gạo vào cuối năm ngoái, Indonesia bắt đầu chuyển sang nhập khẩu gạo từ nước này. Trong cả năm 2024, tỷ trọng gạo Ấn Độ trong cơ cấu nhập khẩu của Indonesia chỉ khoảng 5,4% nhưng đến tháng 1 năm nay, con số này lên tới 34%. Điều này đồng nghĩa, miếng bánh thị phần của các nước trong đó có Việt Nam chuyển sang cho Ấn Độ.

Nguồn: Trung tâm Thương mại Quốc tế (H.Mĩ tổng hợp)
Bên cạnh Indonesia, Malaysia - thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ ba, cũng ghi nhận mức sụt giảm mạnh 31% trong hai tháng đầu năm nay xuống hơn 26.000 tấn. Thứ hạng của thị trường này cũng tụt xuống vị trí 6.
Tuy nhiên, dòng chảy gạo của Việt Nam có sự luân chuyển sang các thị trường khu vực Châu Phi. Các quốc gia như Bờ Biển Ngà, Ghana và một số quốc gia khác như Trung Quốc, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ…
Trong đó, xuất khẩu gạo sang Bờ Biển Ngà tăng gấp 13 lần so với cùng kỳ năm ngoái lên gần 213.000 tấn, trở thành thị trường nhập khẩu nhiều gạo thứ hai của Việt Nam. Ghana đứng thứ ba với hơn 112.000 tấn, gấp 4 lần cùng kỳ.
Các thị trường khác cũng ghi nhận mức tăng trưởng tính bằng “gấp trăm lần lần” như Bangladesh (379 lần), Thổ Nhĩ Kỳ (214 lần).
Tại Trung Quốc, năm ngoái lượng nhập khẩu gạo của nước này thấp nhất 13 năm nhưng năm nay họ đã tăng nhập khẩu trở lại và Việt Nam cũng được hưởng lợi.
Trong hai tháng lượng gạo mà Trung Quốc nhập khẩu từ Việt Nam gấp 3,8 lần lên 73.115 tấn.

Nguồn: Tổng Cục Hải quan (Hoàng Hiệp tổng hợp)
Lý giải cho sự thay đổi trong dòng chảy gạo xuất khẩu này, trao đổi với chúng tôi, ông Phan Văn Có, Giám đốc Marketing Công ty Trách nhiệm Hữu hạn VRICE, cho biết hiện tại giá gạo Việt Nam đang ở mức thấp nhất trong số các nước xuất khẩu.
Bên cạnh đó, chi phí cước vận chuyển từ Việt Nam sang Châu Phi khá tốt, trong khi chất lượng gạo của Việt Nam tốt hơn Ấn Độ. Do đó, các nước Châu Phi có xu hướng tăng cường mua hàng Việt Nam để tận dụng giá thấp.
“Các khách hàng truyền thống của Ấn Độ ở khu vực Châu Phi có xu hướng chuyển sang mua hàng của Việt Nam vì chất lượng tốt hơn và giá cả cũng cạnh tranh. Giá gạo thơm của Việt Nam hiện tại thấp nhất trong số các nước xuất khẩu. Do vậy, mặc dù cước xuất khẩu từ Ấn Độ rẻ hơn 10 - 15 USD/tấn, nhưng khách hàng ở Châu Phi sẵn sàng chọn gạo Việt để đổi lại chất lượng tốt hơn", ông Có nói.
Còn lý do của việc xuất khẩu gạo sang Trung Quốc tăng mạnh lại hoàn toàn khác. Không giống như những thị trường châu Á khác như Indonesia hay Philippines, Trung Quốc là quốc gia sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới và đáp ứng được nguồn cung trong nước. Do đó, áp lực phải nhập khẩu gạo của nước này trong bối cảnh giá tăng cao của năm ngoái cũng không lớn như một số quốc gia khác.
“Lượng gạo sản xuất trong nước của Trung Quốc rất lớn, đủ cung cấp cho nội địa, gạo nhập khẩu đóng vai trò riêng biệt. Việc Trung Quốc tăng nhập khẩu gạo Việt Nam trong đầu năm nay là để tận dụng giá thấp. Họ chỉ nhập khi giá Việt Nam tốt hơn giá của họ nhằm tăng dự trữ hoặc để xuất khẩu sang nước khác”, ông Có cho biết.

Nguồn: Tổng Cục Hải quan (H.Mĩ tổng hợp)
Thị trường truyền thống có thể sớm quay trở lại nhập khẩu gạo Việt Nam
Mặc dù có sự luân chuyển về tỷ trọng thị trường, các khách hàng truyền thống của Việt Nam được dự báo sẽ quay trở lại nhập khẩu gạo trong thời gian tới khi nhu cầu tiêu thụ vẫn lớn.
Báo cáo mới nhất từ Bộ Nông Nghiệp Mỹ (USDA), sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2024-2025 dự báo ở mức kỷ lục 532,7 triệu tấn, tăng 10,4 triệu tấn so với niên vụ trước. Tuy nhiên, tiêu thụ gạo toàn cầu cũng dự kiến sẽ tăng mạnh 7,2 triệu tấn, lên 530,7 triệu tấn.
USDA dự báo Philippines sẽ tiếp tục là quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới năm 2025 với khối lượng duy trì ở mức 5,4 triệu tấn. Do điều kiện thời tiết bất lợi, sản lượng lúa gạo của Philippines ước tính giảm xuống còn 12 triệu tấn trong năm nay so với mức 12,3 triệu tấn của năm 2024.
Ngoài ra, nhập khẩu gạo của Bangladesh dự kiến tăng 1 triệu tấn lên 1,2 triệu tấn. Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, Bangladesh sẽ nhập khẩu 100.000 tấn gạo trắng từ Việt Nam theo thỏa thuận hợp tác giữa hai Chính phủ nhằm bổ sung nguồn cung và ổn định thị trường lương thực trong nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân.
USDA cũng dự báo nhập khẩu của Trung Quốc sẽ tăng 575.000 tấn trong năm nay, đạt 2,2 triệu tấn, do nhu cầu được nhận định sẽ tăng lên khi giá gạo toàn cầu giảm. Thực tế cho thấy, Trung Quốc tăng tốc nhập khẩu gạo trở lại từ quý IV năm ngoái đến nay.
Theo ông Có, các khách hàng truyền thống như Indonesia và Malaysia sẽ sớm quay trở lại mua hàng của Việt Nam trong thời gian tới.
“Thời điểm hiện gạo của Việt Nam đang phải cạnh tranh rất gắt gao với Thái Lan và Ấn Độ. Tuy nhiên, lượng hàng tồn kho cũ của Ấn Độ chất lượng không đạt nên sớm muộn, các khách hàng truyền thống như Malaysia, Indonesia cũng quay lại với gạo Việt. Chính vì vậy, mặc dù giá gạo Việt Nam hiện đang ở mức thấp nhưng nếu quy đổi ra VND thì các kho cũng không thể thu mua được giá đó. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng không thể xuất khẩu được với mức giá thấp như vậy”, ông Có nói.