Liệu ông Powell có thể khống chế lạm phát như huyền thoại Paul Volcker?
Giai thoại về cựu Chủ tịch Fed Paul Volcker gắn liền với một giai đoạn đau thương của nền kinh tế Mỹ: Đại Lạm phát. Chuỗi khủng hoảng bắt đầu vào cuối năm 1972 và kéo dài đến đầu những năm 1980.
Trong một cuốn sách xuất bản năm 1994, giáo sư Jeremy Siegel của Trường Kinh doanh Wharton (Đại học Pennsylvania) từng gọi Đại Lạm phát là “thất bại lớn nhất về chính sách kinh tế vĩ mô hậu Thế chiến thứ hai”.
Một số chuyên gia đổ lỗi rằng đà tăng nóng của dầu thô, đầu cơ tiền tệ,…đã dẫn đến Đại Lạm phát. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ do Tổng thống Richard Nixon chống lưng và gây thâm hụt ngân sách trầm trọng mới là ngọn nguồn.
Khi nhậm chức lần đầu năm 1969, ông Nixon đã phải “thừa hưởng” một cuộc suy thoái kinh tế từ người tiền nhiệm Lyndon Johnson. Khi thâm hụt ngân sách và áp lực lạm phát bắt đầu hình thành vào đầu những năm 1970, vị tổng thống không thực sự lưu tâm.
Càng gần đến giai đoạn tái tranh cử, ông lại càng muốn một nền kinh tế tăng trưởng vượt bậc. Điều Nixon lo sợ là một cuộc suy thoái khác có thể xảy ra. Và theo lý lẽ của ông, gây áp lực để Fed hạ lãi suất là cách tốt nhất để thúc đẩy tăng trưởng.
Nixon đã sai thải Chủ tịch Fed William McChesney Martin và bổ nhiệm cố vấn tổng thống Arthur Burns làm người kế nhiệm. Ông muốn tiền rẻ, tức là duy trì lãi suất thấp để củng cố tăng trưởng trong ngắn hạn và khiến cử tri tin rằng nền kinh tế đang rất vững mạnh.
Dưới thời ông Burns, chỉ tính riêng trong giai đoạn tháng 12/1971 - 12/1972, cung tiền M1 của Fed đã tăng mạnh từ 228 tỷ USD lên 249 tỷ USD. Cung tiền M2 thậm chí còn phình to hơn, từ 710 tỷ USD lên 802 tỷ USD, theo số liệu từ Fed chi nhánh St. Louis.
Trong khi đó, vào năm cuối cùng của ông Martin trên cương vị Chủ tịch Fed, cung tiền M1 chỉ tăng khiêm tốn từ 198 tỷ USD lên 206 tỷ USD, còn cung tiền M2 đi từ 569 tỷ USD lên 589 tỷ USD.
Việc bơm tiền của Fed đã có tác dụng trong ngắn hạn. Đương kim Tổng thống Nixon tái đắc cử năm 1972 khi giành thắng lợi tại 49 trong tổng 50 tiểu bang. Lạm phát khi đó ở mức thấp một con số. Song, Mỹ đã phải trả giá đắt khi mùa bầu cử khép lại.
Mùa đông năm 1972 và 1973, Chủ tịch Fed Arthur Burns bắt đầu lo về lạm phát. Năm 1973, lạm phát tăng gấp đôi lên 8,8%; sau đó leo dần lên 12%; và đến năm 1980, đạt đỉnh hơn 14%.
Áp lực giá cả trong thời kỳ Đại Lạm phát đè nặng lên đời sống người dân Mỹ. Sức mua của người tiêu dùng xuống thấp, đồng thời tiền tiết kiệm của người dân còn có nguy cơ cạn kiệt.
Họ cảm thấy khó khăn chồng chất và mất tinh thần. Các hộ gia đình cân đo đong đếm để mua hàng hoá, một số vật phẩm bỗng nằm ngoài tầm với của họ. Nhìn chung, lạm phát làm xói mòn niềm tin của người tiêu dùng vào nền kinh tế và sự lãnh đạo của chính phủ.
May mắn thay, Đại Lạm phát cuối cùng cũng chấm dứt dưới bàn tay lèo lái của Chủ tịch Fed Paul Volcker.
Năm 1979, khi Tổng thống Jimmy Carter tìm kiếm một người cầm cương mới cho ngân hàng trung ương Mỹ, cái tên Paul Volcker liên tục được nhắc đến. Cuối cùng, ông Carter đã bổ nhiệm Voclker làm Chủ tịch Fed.
Quyết định của ông Carter được hậu thế đánh giá là một nước đi sáng suốt, dù nó khiến ông đánh mất nhiệm kỳ thứ hai. Mặt khác, 8 năm trên cương vị lãnh đạo Fed, Volcker đã tạo tiền đề cho “trái ngọt” kinh tế trong nhiều năm về sau, dù từng khiến người Mỹ sửng sốt và thậm chí có lúc tức giận.
Một đêm tháng 10/1979, hai tháng sau khi nhậm chức, Volcker đã tập hợp đồng nghiệp từ khắp đất nước để tổ chức một cuộc họp chính sách khẩn và bí mật. Sau hàng giờ tranh luận, ông đã thuyết phục FOMC thay đổi toàn bộ khuôn khổ chính sách tiền tệ tại Mỹ.
Sau đó, Volcker đã tăng lãi suất chuẩn lên gần 20% - một mức chưa từng có trong lịch sử; đồng thời, thu hẹp nguồn cung tiền và tín dụng đang chảy vào nền kinh tế Mỹ. Dù liều lĩnh, Volcker ý thức được thiệt hại tiềm tàng của việc này đến tăng trưởng.
Quả thực, hành động của Chủ tịch Fed Paul Volcker đã gây ra cuộc suy thoái kinh tế sâu sắc nhất kể từ Đại Khủng hoảng những năm 1930, đẩy hàng nghìn doanh nghiệp và trang trại tại Mỹ vào cảnh phá sản, cũng như kéo tỷ lệ thất nghiệp lên mức 10%.
Ông Volcker bị hàng loạt doanh nghiệp, liên đoàn lao động và nhà lập pháp chỉ trích công khai. Song, ông chấp nhận bị tấn công, và cố thuyết phục rằng liệu pháp gây sốc đó sẽ giúp hạ nhiệt giá hàng hoá và tạo đà cho nền kinh tế tăng tốc mạnh hơn trong dài hạn.
Tức giận vì lãi suất quá cao, một người đàn ông có súng và vũ khí từng gây náo loạn tại toà nhà của Fed. May thay, không ai gặp tai hoạ. Nhưng sau vụ việc, ông Volcker đã được chỉ định bảo vệ an ninh toàn thời gian.
Mặc mọi suy diễn và lo ngại của công chúng, ông Volcker đã đúng. Ngay sau khi Volcker “nới tay” với nền kinh tế Mỹ vào năm 1981 và Fed bắt đầu hạ lãi suất, siêu cường này đã tận hưởng 25 năm lạm phát thấp, tăng trưởng ổn định và rất ít khi gặp suy thoái, kể cả có cũng rất nhẹ nhàng.
Các nhà kinh tế cho rằng giai đoạn kể trên - vốn được xem là một trong những chuỗi ngày tươi đẹp nhất của nền kinh tế Mỹ, có được là nhờ Paul Volcker và sự tín nhiệm mà ông giành được cho Fed. Thử nhìn lại nhiều năm trước, người dân Mỹ đã mất niềm tin vào Fed trong cuộc chiến chống lạm phát như thế nào.
Giáo sư William Silber của Đại học New York từng nhận xét: “Tại thời điểm sự tín nhiệm dành cho Fed đã suy giảm đáng kể, Volcker đã vực lại niềm tin của công chúng. Ông là hình mẫu cho các chủ tịch ngân hàng trung ương tương lai”.
Ông Jerome Powell đang phải cân nhắc thiệt hơn sau khi lạm phát tiêu dùng tháng 5 năm nay tăng 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái và xác lập đỉnh mới. Có thể ông Powell phải đẩy nền kinh tế vào suy thoái để giành lại quyền kiểm soát giá cả.
Cho đến nay, đương kim Chủ tịch Fed vẫn chưa ủng hộ một biện pháp tiền tệ cứng rắn, dù rằng sau dữ liệu lạm phát mới nhất, Phố Wall ngày càng tin tưởng Fed sẽ nâng lãi suất đến 75 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 6.
Ngày càng có nhiều nhà kinh tế nhận định rằng các nhà hoạch định chính sách cần phải chấp nhận để kinh tế thu hẹp và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn để đưa lạm phát về ngưỡng có thể chấp nhận được.
Ở nghiên cứu mới, kinh tế trưởng Anna Wong của Bloomberg Economics và các đồng nghiệp nói khả năng xảy ra suy thoái trong năm nay là khoảng 25% và trong năm sau là 75%.
Hiện, ngân hàng trung ương Mỹ đã bắt đầu hành động một chút. Tính từ đầu năm đến nay, Fed đã nâng lãi suất tổng cộng 75 điểm cơ bản, đồng thời đã bắt đầu ngừng mua trái phiếu Kho bạc.
Trong bối cảnh cuộc chiến tại Ukraine còn tiếp diễn và chính sách Zero COVID của Trung Quốc chưa biết đến khi nào chấm dứt, áp lực giá cả nhất định sẽ còn phình to hơn. Ông Powell có thể phải noi gương người tiền nhiệm Paul Volcker, chấp nhận để nền kinh tế chịu đau một chút.