Cổ phiếu, nợ công, Tổng thống Trump và Fed: Lối lập luận ngớ ngẩn của một bộ phận nhà đầu tư
Lập luận vô lý
Thị trường chứng khoán Mỹ đang phải đối mặt với một đợt lao dốc nghiêm trọng khi bất ổn bao trùm khắp mọi ngóc ngách Phố Wall và thổi bay 5.000 tỷ USD vốn hoá chỉ trong ba tuần ngắn ngủi.
Hiện tại, chỉ số Nasdaq Composite vẫn đang trong vùng điều chỉnh và giảm hơn 11% so với đỉnh gần nhất. Trong khi đó, S&P 500 chỉ vừa ra khỏi vùng điều chỉnh nhờ hai phiên tăng điểm gần đây.
Giá cổ phiếu cắm đầu trong bối cảnh Tổng thống Donald Trump làm nóng cuộc chiến thuế quan với các đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ. Có những thời điểm thuế quan dường như cầm cương thị trường.
Ngoài ra, nền kinh tế Mỹ cũng có dấu hiệu chững lại, với bằng chứng là các cuộc khảo sát tâm lý người tiêu dùng yếu hơn và những gã khổng lồ bán lẻ như Walmart đưa ra triển vọng ảm đạm hơn.
Một yếu tố khác cũng đóng góp vào cú rơi của thị trường chứng khoán là sự đảo chiều của các giao dịch liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI). Kể từ ngày 19/2, Nvidia - cổ phiếu hưởng lợi nhiều nhất từ cơn sốt AI - đã giảm 12,6%.
Như vậy, sau hai năm liên tiếp tăng hơn 20% và xác lập thành tích chưa từng thấy kể từ cuối thập niên 1990, chỉ số S&P 500 đã tụt gần 7% kể từ khi ông Trump nhậm chức tổng thống.

Tổng thống Mỹ Donald Trump làm việc tại Phòng Bầu dục, ngày 7/3. (Ảnh: Getty Images).
Một điểm gây bất ngờ trong đợt bán tháo hiện nay là ông Trump, vị tổng thống trước đây luôn đánh giá hiệu quả làm việc của mình bằng thị trường chứng khoán, đang gạt bỏ những lo lắng của nhà đầu tư. Các quan chức chính phủ cũng phớt lờ những điều chỉnh trên thị trường.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội Mỹ vào ngày 6/3, ông Trump nói thẳng: “Tôi thậm chí còn không nhìn vào thị trường, bởi vì về lâu dài, nền kinh tế Mỹ sẽ trở nên rất mạnh mẽ với những gì đang diễn ra ngay tại đây”.
Và trong lúc giá cổ phiếu trồi sụt, có một bộ phận nhà đầu tư cho rằng ông Trump đang muốn thị trường chứng khoán sập nhằm gây áp lực buộc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) phải hạ lãi suất.
Theo những người này, mục đích của chiến lược nói trên là để chính phủ đáo hạn nợ ở mức lãi suất thấp hơn, bởi nợ là mối nguy lớn hơn so với chuyện thị trường điều chỉnh vài chục % sau khi tăng suốt vài năm qua.
Tuy nhiên, những lập luận đó không hiểu cách hoạch định chính sách tiền tệ của Fed cũng như cách vận hành của thị trường nợ chính phủ vì bản chất của hai loại lãi suất được nhắc đến là khác nhau.

Lãi suất quỹ liên bang
Khi các chuyên gia nói đến cắt giảm lãi suất thì thực tế họ đang đề cập đến lãi suất quỹ liên bang - một loại lãi suất ngắn hạn đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động kinh và do Fed ấn định.
Về định nghĩa, lãi suất quỹ liên bang là lãi suất mà các ngân hàng thương mại tính khi cho nhau vay (thường là vay qua đêm) để đáp ứng yêu cầu dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương.
Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC, cơ quan hoạch định chính sách của Fed) sẽ họp 8 lần một năm, mỗi cuộc họp cách nhau khoảng một tháng rưỡi để đặt ra phạm vi mục tiêu của lãi suất quỹ liên bang.
FOMC điều chỉnh lãi suất dựa trên các chỉ báo kinh tế chính có thể thể hiện tình trạng lạm phát, suy thoái hoặc những vấn đề khác có khả năng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong một số trường hợp đặc biệt, FOMC có thể tổ chức họp bất thường. Chẳng hạn, tại cuộc họp vào tháng 3 và 5/2020, các quan chức đã nhất trí hạ lãi suất khẩn cấp về sát mức 0 và bơm tiền để hỗ trợ nền kinh tế trong đại dịch.

Sau khi hạ lãi suất ba lần liên tiếp vào cuối năm ngoái, các quan chức Fed đã tạm ngừng tại cuộc họp tháng 1 và được dự đoán sẽ tiếp tục “án binh bất động” tại cuộc họp vào ngày 18 - 19/3 tới.
Trong những bài phát biểu gần đây, giới chức Fed hàm ý họ đang áp dụng chiến lược chờ đợi và quan sát vì chính quyền Tổng thống Trump đang triển khai rất nhiều chính sách kinh tế mới.
Chắc chắn, các nhà hoạch định chính sách sẽ không muốn hành động trước khi họ hiểu rõ hơn về tác động của thuế quan đối với lạm phát và nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại.
Trong lần xuất hiện tại Đại học Chicago vào ngày 7/3, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã khẳng định thông điệp đó khi ông cho biết bản thân mình và các đồng nghiệp không vội cắt giảm lãi suất.
“Cái giá khi hành động thận trọng là rất, rất thấp. Nền kinh tế vẫn ổn nên thực sự không cần chúng tôi phải làm gì cả. Và vì vậy, chúng tôi có thể chờ đợi và chúng tôi quả thực nên chờ đợi”, người đứng đầu Fed lưu ý.
Các nhà đầu tư kỳ vọng Fed sẽ hạ lãi suất hai lần (mỗi lần 25 điểm cơ bản) trong năm nay, bắt đầu từ tháng 6 hoặc tháng 7, và có khả năng khá cao sẽ có đợt giảm thứ ba vào cuối năm, theo công cụ FedWatch của CME Group.
Trong khi đó, một cuộc khảo sát của Bloomberg cho thấy các nhà kinh tế dự đoán ngân hàng trung ương Mỹ sẽ giảm lãi suất hai lần trong cả năm, bắt đầu muộn hơn vào tháng 9.

Câu chuyện nợ nần của Mỹ
Trước khi đi sâu vào chuyện đáo hạn nợ của chính phủ Mỹ, hãy điểm qua tình hình vay nợ. Các số liệu từ Bộ Tài chính Mỹ cho thấy nợ công đã tăng nhanh trong một phần tư thế kỷ qua.
Tính đến ngày cuối năm 2024, nợ do công chúng nắm giữ là hơn 28,8 nghìn tỷ USD, xấp xỉ 100% GDP. Ở đây, công chúng bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng, công ty bảo hiểm, chính quyền tiểu bang và địa phương, quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ, chính phủ nước ngoài và cả Fed.
Cộng với nợ do nội bộ chính phủ Mỹ nắm giữ, tổng nợ còn cao hơn, ở mức 36,2 nghìn tỷ USD. Tỷ lệ nợ trên GDP đang gần mức kỷ lục và Văn phòng Ngân sách Quốc hội cảnh báo tốc độ tăng nợ sẽ tiếp tục vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những thập kỷ tới.
Chính phủ Mỹ vay tiền bằng cách phát hành chứng khoán nợ với nhiều kỳ hạn và lãi suất khác nhau, chẳng hạn như phương tiện tài chính với mục đích đặc biệt (SPV), trái phiếu kho bạc phòng ngừa lạm phát (TIPS),...
Tuy nhiên, ba loại phổ biến nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất là tín phiếu kho bạc (T-bills), trái phiếu kho bạc trung hạn (T-notes) và trái phiếu kho bạc dài hạn (T-bonds).

Tín phiếu (T-bills) bao gồm các kỳ hạn từ 4 đến 52 tuần. Tín phiếu kỳ hạn 52 tuần được Bộ Tài chính đưa ra đấu giá 4 tuần một lần, trong khi các kỳ hạn còn lại được đấu giá hàng tuần.
Trái phiếu trung hạn (T-notes) bao gồm các kỳ hạn 2, 3, 5, 7 và 10 năm. Trái phiếu kỳ hạn 10 năm được đấu giá vào các tháng 2, 5, 8 và 11. Các kỳ hạn còn lại được đấu giá đều hàng tháng.
Trái phiếu dài hạn (T-bonds) gồm các kỳ hạn 20 và 30 năm, được đấu giá 4 lần mỗi năm. Trái phiếu dài hạn có kỳ hạn dài hơn hẳn so với hai loại trên nên rủi ro lớn hơn và do đó phải có lãi suất cao hơn.
Khi nói đến lãi suất của chứng khoán kho bạc, người ta thường dùng thuật ngữ “lợi suất”. Theo đó, lợi suất là lãi suất thực tế hàng năm mà chính phủ Mỹ phải trả cho các nghĩa vụ nợ của mình.
Lợi suất mà các nhà đầu tư nhận được cho khi chính phủ Mỹ vay tiền được xác định bởi cung và cầu, tương tự như các hàng hoá như vàng hay dầu thô. Hiện tại, lợi suất của hầu hết chứng khoán kho bạc đều duy trì trên mức 4%, là mức cao so với trung bình lịch sử.
Bởi vì lãi suất quỹ liên bang đại diện cho lãi suất ngắn hạn nên nó ảnh hưởng trực tiếp nhất đến lợi suất của các tín phiếu kho bạc.
Trong khi đó, lợi suất của các trái phiếu dài hạn thường phản ánh kỳ vọng dài hạn của nhà đầu tư đối với nền kinh tế Mỹ. Cho nên, nói Fed hạ lãi suất để giúp chính phủ Mỹ đáo hạn nợ là không hoàn toàn chính xác.

Mặt khác, các chỉ số chứng khoán thường có xu hướng tăng hoặc giảm cùng chiều với đồng USD nên cuộc bán tháo trên thị trường càng trở nên tồi tệ thì đồng bạc xanh càng dễ có nguy cơ suy yếu hơn.
USD vẫn là đồng tiền chiếm ưu thế trên thị trường tài chính toàn cầu, bằng chứng là nó được sử dụng trong gần 90% giao dịch ngoại hối, gần 60% dự trữ ngoại hối và là công cụ thanh toán cho hơn một nửa hoạt động thương mại toàn cầu.
Sự suy yếu của đồng USD có thể làm giảm sức hấp dẫn của doanh nghiệp Mỹ trên thị trường vốn và tín dụng toàn cầu, dẫn đến những rào cản cao hơn trong việc tài trợ cho các khoản đầu tư mới hoặc mở rộng hoạt động.
Các doanh nghiệp và người tiêu dùng Mỹ phụ thuộc vào hàng nhập khẩu cũng có thể phải đối mặt với mức giá cao hơn. Nói một cách dễ hiểu, vị thế của đồng USD suy yếu có thể tác động tiêu cực đến nền kinh tế Mỹ.
Và như đã nói trước đó, lợi suất trái phiếu kho bạc dài hạn hơn thường phản ánh kỳ vọng của nhà đầu tư đối với triển vọng kinh tế Mỹ. Bức tranh tương lai xấu đi sẽ thúc đẩy nhà đầu tư yêu cầu phần bù kỳ hạn (term premium) cao hơn để nắm giữ những chứng khoán nợ rủi ro hơn.
Cho nên, trong khi đồng USD mạnh thường giúp chính phủ giảm chi phí đi vay thì đồng tiền này suy yếu sẽ làm tăng lãi suất vay nợ dài hạn. Tức là, đánh sập thị trường chứng khoán để ép buộc Fed hành động thực chất có thể gây phản tác dụng.
