|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Quốc tế

Các NHTW đã gần chặng cuối của chu kỳ thắt chặt, tại sao nền kinh tế và lạm phát chưa chịu đầu hàng?

15:19 | 26/06/2023
Chia sẻ
Các NHTW lớn tại Mỹ, Anh và châu Âu đã mạnh tay tăng lãi suất trong suốt một năm qua. Lãi suất đã lên cao đáng kể nhưng nền kinh tế và lạm phát vẫn đứng vững.

Người tiêu dùng vẫn còn nhiều tiền để mua sắm thoải mái. (Ảnh minh hoạ: Getty Images).

Trong suốt một năm qua, các ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới đã tăng lãi suất với tốc độ nhanh hiếm có để hạ nhiệt lạm phát, nhưng nỗ lực của họ vẫn chưa đủ.

Nền kinh tế hầu như vẫn tăng trưởng tích cực và áp lực giá ở các quốc gia phát triển vẫn lớn dù lãi suất đã cao hơn đáng kể.

Tại sao tăng trưởng và lạm phát không chậm lại hơn nữa? Phần lớn lời giải nằm ở những tác động kỳ lạ của đại dịch COVID-19 và khoảng thời gian cần thiết để chiến dịch tăng lãi suất của các NHTW phát huy tác dụng.

Ngoài ra, việc thị trường lao động vẫn bị thắt chặt đã thúc đẩy tiền lương và chi tiêu của người tiêu dùng đi lên, tờ Wall Street Journal nhận định.

 

Tác động kỳ lạ của đại dịch COVID-19

Đầu tiên, bản chất bất thường của cuộc suy thoái năm 2020 (do đại dịch gây ra) và cuộc phục hồi sau đó đã làm giảm tác động thông thường của việc tăng lãi suất.

Trong hai năm 2020 và 2021, chính phủ Mỹ cùng các quốc gia khác đã bơm hàng nghìn tỷ USD vào nền kinh tế để hỗ trợ người dân.

Ngay lúc này, nhiều hộ gia đình cũng có thêm cơ hội tiết kiệm khi dịch bệnh làm gián đoạn hoạt động chi tiêu bình thường của họ.

Cùng lúc, lãi suất siêu thấp của các NHTW vẫn cho phép doanh nghiệp và người tiêu dùng đi vay với lãi suất thấp.

Trong những tháng gần đây, các hộ gia đình và doanh nghiệp vẫn tiếp tục chi tiêu mạnh tay. Nhiều gia đình sử dụng nguồn tiền tiết kiệm của mình và khoản tiền này còn được bổ sung bởi tăng trưởng thu nhập tốt.

Các công ty cũng tiếp tục tuyển dụng trong bối cảnh tình trạng thiếu hụt lao động từ thời đại dịch vẫn tiếp diễn và lợi nhuận doanh nghiệp khả quan.

Tuần trước, ông Thomas Barkin, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chi nhánh Richmond, đánh giá: “Có rất nhiều yếu tố liên quan đến đại dịch đang cản trở chu kỳ thắt chặt này”.

Hai ngành nhạy cảm với lãi suất là ô tô và xây dựng có thể cung cấp một cái nhìn rõ nét hơn. Tình trạng thiếu chip bán dẫn trong đại dịch đã hạn chế nguồn cung xe hơi, khiến người mua sẵn sàng trả giá cao hơn.  

Dù hoạt động xây dựng nhà ở cho một gia đình tại Mỹ đã đi xuống vào năm ngoái, việc làm trong lĩnh vực này đã tăng trong 12 tháng qua. Những nút thắt trong chuỗi cung ứng, bắt nguồn từ đại dịch, là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng việc làm.

Gần đây, hoạt động xây dựng nhà ở dành cho một gia đình đã phục hồi do số lượng nhà sẵn có để bán rất thấp. Nhiều gia đình đã có thêm nguồn tài chính trong đại dịch và được hưởng lợi khi lãi suất đi vay thế chấp mua nhà xuống thấp.

Thông thường, các đợt tăng lãi suất của Fed sẽ buộc những người tiêu dùng và doanh nghiệp đang nặng nợ phải kiềm chế chi tiêu để tập trung trả nợ. Song, người tiêu dùng Mỹ không vay mượn quá tay trong hai năm qua.

Đồng thời, trong quý I/2023, các khoản thanh toán nợ chỉ chiếm khoảng 9,6% thu nhập khả dụng của các hộ gia đình, dưới mức thấp nhất được ghi nhận từ năm 1980 đến khi đại dịch bùng phát vào tháng 3/2020.

 

 

 

Nền kinh tế tiếp tục tiến lên phía trước

Thứ hai, chi tiêu của chính phủ đã tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng đi lên, giúp giảm bớt tác động của các cú sốc kinh tế vốn đã ít nghiêm trọng hơn dự kiến.

Chẳng hạn, trong khi cuộc khủng hoảng năng lượng của châu Âu đã đẩy khu vực này vào một cuộc suy thoái nông trong mùa đông vừa qua, châu Âu vẫn tránh được cú ngã đau mà các nhà phân tích từng cảnh báo.

Theo Wall Street Journal, chính phủ các nước châu Âu cam kết chi đến 850 tỷ USD để nâng đỡ nền kinh tế địa phương.

Giá dầu và khí đốt tự nhiên đã hạ nhiệt trong năm nay, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khu vực thông qua việc nâng cao niềm tin của người tiêu dùng và giảm bớt áp lực lên ngân sách chính phủ.

Giá một thùng dầu Brent đã giảm gần một nửa trong năm qua, từ khoảng 120 USD xuống dưới 70 USD/thùng - thấp hơn mức trước khi Nga tấn công Ukraine và khiến giá dầu tăng mạnh vào đầu năm 2022.

Quá trình mở cửa lại nền kinh tế của Trung Quốc cũng giúp ích cho nhiều đối tác thương mại của nước này. Tháng này, Bắc Kinh đã tung ra một số biện pháp kích thích mới để củng cố đà tăng trưởng đang bị yếu của đất nước.

 Tại Mỹ, chính sách tài khoá đã tạo ra cú hích cho nền kinh tế. Trong năm nay, nguồn vốn viên bang tiếp tục chảy ra từ đạo luật đầu tư cơ sở hạ tầng trị giá 1.000 tỷ USD mà Tổng thống Biden ban hành năm 2021.

Ngoài ra, chính phủ Mỹ cũng bơm thêm hàng trăm tỷ USD thông qua các gói kích thích ngành bán dẫn và năng lượng tái tạo.

Kiên nhẫn chờ đợi đến chặng cuối

Thứ ba, cần có thời gian để chính sách thắt chặt của các NHTW tác động đến nền kinh tế, hạ nhiệt tăng trưởng lẫn lạm phát.

NHTW Anh (BoE) lần đầu tăng lãi suất từ mức gần bằng 0 vào tháng 12/2021, trong khi Fed và NHTW châu Âu (ECB) lần lượt thắt chặt vào tháng 3 và tháng 7/2022.

Theo một số ước tính, hai phần ba đợt tăng lãi suất đầu tiên của Fed chỉ giúp đưa lãi suất về trạng thái cân bằng, trong khi ba đợt gần nhất mới giúp làm chậm nền kinh tế.

Kết quả là, chiến dịch thắt chặt chỉ mới giúp kiềm chế tăng trưởng trong 8 hoặc 9 tháng, Chủ tịch Fed chi nhánh Atlanta là ông Raphael Bostic cho hay trong một bài luận gần đây.

Theo ông Dario Perkins, Giám đốc cấp cao của TS Lombard, công chúng sẽ khó đưa ra đánh giá bởi tác động của lãi suất đang không thể hiện một cách rõ rệt. Doanh nghiệp từ bỏ kế hoạch mở rộng dưới áp lực của lãi suất cao là một ví dụ.

“Trong mắt nhiều người, có vẻ chính sách tiền tệ hiện không phát huy tác dụng, nhưng thực tế là có”, vị giám đốc nhấn mạnh.

 

Nhiều nhà kinh tế vẫn dự đoán suy thoái sẽ xuất hiện trong 6 đến 18 tháng tới, do các đợt tăng lãi suất trước đây hoặc cũng có thể do các động thái sắp tới.

Tuy nhiên, các chuyên gia khó có thể đánh giá chính xác lãi suất cần tăng lên mức nào vì các tín hiệu từ nền kinh tế đang khá lẫn lộn.

Tại Mỹ, hoạt động tuyển dụng vẫn diễn ra mạnh mẽ nhưng số giờ làm trung bình đã giảm trong tháng 5 và số người nộp đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tuần đã tăng trong những tuần gần đây lên mức cao nhất kể từ cuối năm 2021.

Giá năng lượng và tạp hoá giảm đã giúp lạm phát (tính theo chỉ số giá tiêu dùng, CPI) của Mỹ tụt xuống mức 4% vào tháng 5. Tháng 9 năm ngoái, lạm phát từng đạt đỉnh 4 thập kỷ là 9,1%.

Phạm vi tăng giá cũng đã hẹp lại. Trong tháng 5, chưa đến 50% mặt hàng trong rổ hàng hoá dùng để tính CPI tăng hơn 5%. Tỷ lệ này đã giảm đáng kể so với mức 80% vào năm ngoái.

Song, các NHTW vẫn lo lắng về việc lạm phát lõi không hạ nhiệt nhanh chóng. Lạm phát lõi không tính giá năng lượng và thực phẩm, là thước đo giúp dự đoán chính xác áp lực giá trong tương lai.

Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), cơ quan được mệnh danh là ngân hàng của các NHTW, cảnh báo trong một phân tích mới đây rằng việc đưa lạm phát xuống mức mục tiêu 2% có thể khó hơn dự kiến.

BIS cho biết áp lực giá càng dai dẳng thì càng có khả năng người tiêu dùng sẽ điều chỉnh hành vi. Trong kịch bản đó, các NHTW có thể phải gây ra một cuộc suy thoái nghiêm trọng hơn để buộc lạm phát lùi về mục tiêu 2%.

 

'Chặng cuối cùng’ có thể là thách thức lớn nhất

Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) cảnh báo.

Yên Khê