|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Tài chính

NIM ngân hàng khó tăng

14:00 | 28/01/2025
Chia sẻ
Về dài hạn, NIM ngân hàng sẽ khó duy trì mức cao như hiện nay khi các nguồn huy động cho doanh nghiệp trở nên đa dạng hơn và ngân hàng ít chấp nhận rủi ro hơn do các yêu cầu ngày càng gắt gao.

Phục hồi trong ngắn hạn

Một trong những chỉ số quan trọng nhất đối với hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng là biên lãi thuần (NIM) – thể hiện chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi chia cho tài sản sinh lãi. NIM càng lớn đồng nghĩa mảng tín dụng, hoạt động cốt lõi của ngân hàng, càng có khả năng sinh lời cao.

Theo dữ liệu từ WiChart, tính đến cuối quý III/2024, NIM của các ngân hàng niêm yết ở mức 3,25%, thấp nhất kể từ quý III/2019. NIM có sự phân hóa mạnh giữa các ngân hàng. Nhóm nhà băng cổ phần với quy mô lớn như VPBank, HDBank … ghi nhận NIM lên tới gần 6%. Ngược lại, một số nhà băng quy mô nhỏ chỉ có mức NIM dưới 2%.

Kể từ mức đỉnh 3,61% ghi nhận vào quý IV/2022, NIM của các ngân hàng niêm yết đã có xu hướng giảm, tuy nhiên vẫn cao hơn đáng kể so với giai đoạn trước năm 2019.

 

Giải thích về xu hướng NIM giảm trong giai đoạn gần đây, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân của Chứng khoán Yuanta Việt Nam, cho rằng yêu cầu duy trì mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp và bơm vốn để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng khiến cho NIM ngân hàng gặp khó khăn.

Theo ông, sang quý IV/2024, NIM có thể tiếp tục giảm hơn nữa trong bối cảnh lãi suất tiết kiệm bắt đầu tăng trở lại, trong khi ngân hàng vẫn phải duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp.

“Về cơ bản, bức tranh về NIM trong quý IV có thể tiếp tục khuynh hướng giảm chứ chưa thể cải thiện. Tuy nhiên, sang năm 2025, NIM có thể khá hơn vì lãi suất cho vay có khả năng phục hồi”, chuyên gia nhận định.

Phân tích sâu hơn, ông Minh cho rằng dư nợ tại các ngân hàng tăng trưởng trong năm 2024 phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực sản xuất với lãi suất cho vay thấp (vì là lĩnh vực ưu tiên).

Trong khi đó, sang năm 2025, lãi suất cho vay có thể tăng lên nhờ sự phục hồi của tín dụng bất động sản (BĐS) bởi lãi suất cho vay BĐS thường cao hơn những lĩnh vực khác vì rủi ro cũng cao hơn.

“Do đó, dù lãi suất tiết kiệm tăng nhanh nhưng lãi suất cho vay cao hơn sẽ bù đắp xu hướng này, giúp NIM cải thiện”, ông Minh nhận định.

NIM khó tăng về dài hạn

Theo dữ liệu từ World Bank, NIM của ngân hàng Việt Nam thuộc nhóm cao so với các quốc gia trên thế giới. Mặc dù dự báo NIM sẽ phục hồi trong năm 2025, ông Nguyễn Thế Minh cho rằng về dài hạn, chỉ số này tại các ngân hàng Việt sẽ có xu hướng giảm.

Nguyên nhân một phần là bởi thị trường vốn sẽ bắt đầu có sự phát triển. Khi đó, các lĩnh vực có lãi suất cho vay cao như BĐS sẽ bớt phụ thuộc vào dòng tín dụng ngân hàng. Trong khi BĐS đóng góp một tỷ trọng lớn vào hoạt động cho vay của ngân hàng Việt, dẫn đến NIM dài hạn có xu hướng giảm.

 

Theo số liệu của NHNN, tính đến cuối tháng 9/2024, dư nợ tín dụng vào lĩnh vực BĐS tăng 9,15% so với cuối năm 2023, đạt 3,15 triệu tỷ đồng.

Trong đó, dư nợ tín dụng bất động sản phục vụ mục đích tự sử dụng ở mức 1,88 triệu tỷ đồng, tăng 4,62% và dư nợ tín dụng kinh doanh BĐS là hơn 1,26 triệu tỷ, tăng hơn 16%. Tín dụng BĐS đang chiếm khoảng 21,2% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế (14,8 triệu tỷ đồng).

Ngoài xu hướng trên, chuyên gia cho rằng trong tương lai sắp tới, các ngân hàng sẽ áp dụng các tiêu chuẩn như Basel II, Basel III. “Khi áp dụng tiêu chuẩn càng cao thì rủi ro càng được siết lại, tỷ lệ an toàn tăng lên. Khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng sẽ giảm và khi rủi ro giảm thì chắc chắn lợi nhuận sẽ có khuynh hướng thu hẹp”, ông nói.

Theo ông Minh, NIM hay nói rộng ra là khả năng sinh lời ngành ngân hàng Việt Nam (thể hiện qua các chỉ số như ROA, ROE …) đi xuống trong tương lai là xu hướng tất yếu, bởi nền kinh tế sẽ không còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường nợ.

“Mặc dù tỷ trọng thị trường nợ vẫn đang là khá lớn, nhưng muốn đi con đường bền vững, muốn tạo giá trị trong lĩnh vực sản xuất thì vẫn phải đi từ thị trường vốn, không phải thị trường nợ”, ông nhấn mạnh. “Thời kỳ lợi nhuận ngon của ngân hàng sẽ dần qua đi trong thời gian tới”.

Ngân hàng cần chuẩn bị gì?

Đứng trước xu hướng thu hẹp NIM và tỷ suất sinh lời trong dài hạn, ngay từ thời điểm này, các ngân hàng Việt Nam đã có những giải pháp để chuyển dịch cơ cấu lợi nhuận. Hiện phần lớn tổng thu nhập hoạt động (TOI) của các ngân hàng Việt Nam vẫn đến từ hoạt động tín dụng. Các mảng ngoài lãi chỉ chiếm khoảng 20% và đang có xu hướng giảm dần, trong khi tỷ lệ này ở các quốc gia phát triển trên thế giới cao hơn đáng kể.

 

Chẳng hạn, tại ngân hàng lớn nhất nước Mỹ, JPMorgan Chase, khoảng gần 50% doanh thu đến từ hoạt động ngoài lãi như phí ngân hàng đầu tư, môi giới, phí cho vay, quản lý tài sản, chứng khoán, thẻ, thế chấp,...

“Tại các nước phát triển, các ngân hàng sẽ đi theo xu hướng quản lý tài sản (wealth management). Để quản lý tài chính cá nhân, cơ cấu sản phẩm phải đa dạng. Không chỉ có tiền gửi, ngân hàng còn phải cung cấp các sản phẩm đa dạng như trái phiếu, cổ phiếu, bảo hiểm…”, ông Minh nói.

Ngoài ra, chuyên gia cho biết các ngân hàng cũng cần tiết giảm chi phí quản lý, chi phí vận hành để tối ưu tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR), đẩy lợi nhuận đi lên. Đồng thời, ngân hàng phải tăng sản phẩm số, đẩy mạnh dịch vụ số, thay cho dịch vụ truyền thống, giúp thúc đẩy tỷ lệ CASA.

Ông Minh cho rằng CASA sẽ là một yếu tố quyết định tới lợi nhuận ngân hàng trong bối cảnh lãi suất cho vay đầu ra trong tương lai sẽ không thể duy trì ở mức cao như hiện nay.

Trích Đặc san Doanh nhân Việt Nam số Xuân Ất Tỵ

Minh Quang