[Bàn tròn chính sách] Bỏ 'room tín dụng' sẽ tác động ra sao tới ngân hàng và nền kinh tế?
“Bàn tròn chính sách” là chuỗi tọa đàm định kỳ, diễn ra mỗi tháng một lần, với mục tiêu phân tích sâu các vấn đề chính sách tiền tệ, tài khóa cũng như định hướng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, giúp khán giả và doanh nghiệp nắm bắt kịp thời diễn biến từ góc nhìn đa chiều, có giá trị ứng dụng cao và khuyến nghị từ các chuyên gia giàu kinh nghiệm, giúp khán giả chủ động hơn trong chiến lược kinh doanh – đầu tư.
Với kỳ phát sóng ngày 11/3, Bàn tròn chính sách sẽ xoay quanh chủ đề “Room tín dụng” - hạn mức tín dụng cho các ngân hàng, vấn đề đang được nhà điều hành có những điều chỉnh mới về cách thức vận hành và hướng tới việc bỏ "room tín dụng" trong tương lai.
Vậy vì sao trong bối cảnh hiện tại, nhà điều hành lại đưa ra gợi mở về việc bỏ "room tín dụng" và điều này sẽ tác động ra sao tới các ngân hàng?
Khách mời và diễn giả tại "Bàn tròn chính sách" ngày 11/3:
Host: Bà Trịnh Quỳnh Giao, Tổng Giám đốc PVI AM.
Diễn giả:
- TS. Nguyễn Tú Anh, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương
- Ông Trần Hoài Phương, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp, thành viên Ban điều hành Ngân hàng HDBbank.
- Ông Lê Hoài Ân, chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, người sáng lập IFSS và đồng sáng lập WiResearch.
Nội dung thảo luận chính:
- Bối cảnh & Lý do tồn tại room tín dụng
- Thời điểm & Lộ trình bỏ room
- Tác động đến hệ thống ngân hàng & nền kinh tế
- Triển vọng ngành ngân hàng
Bối cảnh khác biệt
Chuyên gia Lê Hoài Ân: Việc sử dụng room tín dụng để điều phối nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã làm khá tốt trong thập niên vừa rồi, tuy nhiên, bao giờ có “trần” thì cũng tạo sự “cồng kềnh”. Trong giai đoạn đầu, ngành ngân hàng cũng phải loay hoay để thích ứng nhưng càng những năm về sau càng minh bạch và có những tiêu chí rõ ràng hơn thì các ngân hàng càng nắm rõ hơn về việc với năng lực của mình thì được cấp room tín dụng bao nhiêu là phù hợp.
Đến năm 2024, lần đầu tiên NHNN giao room tín dụng ngay từ đầu năm và năm nay cũng vậy. Có thể thấy, thay vì “bỏ hay không bỏ room tín dụng” NHNN sẽ nghĩ nhiều hơn đến câu chuyện khi nào bỏ room tín dụng thì phù hợp nhất và tiến từng bước tới lộ trình bỏ room tín dụng.
Hiện trên thế giới gần như không có quốc gia nào hạn chế về room tín dụng và ngay cả các quốc gia trước có áp dụng thì nay hầu như đã bỏ room. Hiếm có quốc gia nào trên thế giới còn phải điều hành tăng trưởng tín dụng như Việt Nam bởi cũng không có quốc gia nào có những điểm đặc thù.
Thứ nhất, Việt Nam là một trong những quốc gia tăng trưởng cao của thế giới và để tăng trưởng cao như vậy cần có sự kích thích kinh tế, trong đó có yếu tố từ tín dụng.
Và thứ hai là theo cơ chế thị trường, dòng tiền sẽ chảy về những nơi mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn và xảy ra tình trạng đầu cơ, vì vậy vai trò của Nhà nước là điều tiết để dòng tiền đi vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn đầu để tạo một nền công nghiệp quốc gia.
Tuy nhiên, NHNN đã bắt đầu đưa tín hiệu về việc bỏ room tín dụng khi thị trường chứng khoán, trái phiếu phát triển hơn. Thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng đang tiến tới được nâng hạng và sẽ đóng vai trò tốt hơn trong thị trường vốn.

Chuyên gia Lê Hoài Ân. (Ảnh: BTC).
Trước đây, do năng lực kiểm soát tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng còn hạn chế, khiến việc áp dụng cơ chế room tín dụng trở thành một công cụ quan trọng để kiểm soát rủi ro. Nhưng đến nay, bối cảnh của ngành ngân hàng đã rất khác, phần lớn các ngân hàng đã hoàn tất việc tuân thủ các tiêu chuẩn theo Basel II và Basel III theo chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện để ngành ngân hàng vận hành theo hướng linh hoạt hơn.
Ngoài ra, đang có sự dịch chuyển trong dòng chảy tín dụng. Trước năm 2022, tăng trưởng bán lẻ cũng cao hơn tăng trưởng cho vay doanh nghiệp. Đến năm 2023, lần đầu tiên tăng trưởng cho vay doanh nghiệp cao hơn tín dụng của cá nhân và đến năm 2024 xu hướng đó vẫn duy trì.
Năm nay, khả năng là với mức tăng trưởng 16% thì cho vay doanh nghiệp vẫn duy trì tăng cao hơn cho vay cá nhân. Sự chuyển dịch trong dòng chảy tín dụng cho thấy cần thiết có sự linh hoạt hơn trong phân bổ, nới room tín dụng hay tiến tới bỏ room tín dụng.
Bên cạnh đó, việc NHNN cấp thêm room tín dụng cho các ngân hàng hoạt động tốt cũng tạo cơ hội tăng trưởng tốt hơn nhiều.
Lộ trình bỏ room tín dụng nên được triển khai ra sao?
Theo TS. Nguyễn Tú Anh, trong giai đoạn đầu, NHNN có thể thử nghiệm cho khoảng 15 - 20 ngân hàng thuộc nhóm tốt nhất được tự do tăng trưởng tín dụng, trong khi các ngân hàng còn lại vẫn phải phân bổ tín dụng theo hạn mức.
Việc này sẽ tạo ra động lực và khuyến khích các ngân hàng không nằm trong nhóm tự do phải nâng cao chất lượng quản trị và hiệu quả hoạt động để có thể gia nhập nhóm này. Việc tăng tín dụng cho các ngân hàng là điều tích cực, nhưng các ngân hàng muốn được tự do phải đáp ứng những tiêu chí và điều kiện nhất định.
Điều này không chỉ tạo ra sức ép cạnh tranh mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng mà còn thúc đẩy việc xây dựng các ngân hàng chất lượng tốt hơn. Đối với những ngân hàng không thể cạnh tranh được, sẽ cần phải xem xét các giải pháp hội nhập hoặc hợp tác với nhau, qua đó tạo ra sự cạnh tranh tốt hơn.
Ông Trần Hoài Phương: Từ góc độ ngân hàng, tôi nhận thấy rằng là cơ chế hiện nay vẫn ổn khi các ngân hàng quan tâm chỉ số tín nhiệm của mình và sử dụng vùng vốn một cách hợp lý đối với room được giao.
Tuy nhiên, trong một bối cảnh khi nền kinh tế cần phục hồi và phải tăng trưởng tốt, tạo ra giá trị cho xã hội và nền kinh tế, tăng trưởng GDP, cũng như cải thiện túi tiền của người đi làm và của nhà đầu tư thì cần phải cần một lực rất là lớn trong việc sử dụng tiền và vốn của nền kinh tế. Không có cách nào khác là chúng ta phải chạy nhanh hơn và để làm được điều đó thì phải cần nhiều vốn hơn, tăng trưởng tín dụng cần mạnh mẽ hơn.
Bên cạnh room tín dụng hiện tại, bản thân các ngân hàng cần phải quan tâm tới chất lượng tài chính của mình để đạt được điểm tín nhiệm không chỉ đối với NHNN mà đối với các định chế tài chính nước ngoài.
Tác động khi bỏ room tín dụng?
Theo ông Trần Hoài Phương, việc xem xét bỏ room tín dụng theo lộ trình có thể là một tín hiệu tích cực cho chính sắc vĩ mô có màu sắc cởi mở hơn, dẫn đến tạo điều kiện nâng hạng tín nhiệm đất nước và các định chế tài chính trong nước.
Ngân hàng nhà nước cũng đã có các cách xếp loại ngân hàng dựa trên hệ thống các hệ số an toàn tài chính. Doanh nghiệp hoạt động tăng trưởng tốt sử dụng cấp phát tín dụng hiệu quả từ các ngân hàng của mình. Vay ngân hàng trong nước là một kênh quan trọng (nhưng không phải duy nhất) đối với các doanh nghiệp hàng đầu.

Ông Trần Hoài Phương,Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp, thành viên Ban điều hành HDBank. (Ảnh: BTC).
Chuyên gia Nguyễn Tú Anh: Việc bỏ room tín dụng sẽ mang lại tác động tích cực đối với nền kinh tế. Bản chất room tín dụng hiện tại là phân chia thị phần tín dụng cho mỗi ngân hàng theo mức nhất định hàng năm, song điều này sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Nếu room tín dụng được dỡ bỏ, các ngân hàng có năng lực tốt sẽ được phép cạnh tranh tự do, từ đó tạo ra sức ép đối với các ngân hàng kém hiệu quả hơn, buộc họ phải cải thiện hoặc tái cấu trúc, thậm chí sáp nhập để không bị mất thị phần và doanh thu.
Việc này sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế, với sự cạnh tranh tăng cường, có thể giúp lãi suất không quá cao và người dân dễ dàng tiếp cận tín dụng hơn. Bởi hiện tại, khi room tín dụng bị giới hạn, khách hàng có thể gặp khó khăn trong việc vay vốn vì ngân hàng đã hết chỉ tiêu cho vay, dẫn đến việc phải vay ở các tổ chức khác, làm gián đoạn kế hoạch tài chính của họ.
Bỏ room tín dụng sẽ giúp các khách hàng tiếp cận vốn tín dụng dễ dàng hơn, giúp kế hoạch kinh doanh khách hàng nhất quán hơn và giảm thiểu rủi ro.
Nhóm ngân hàng nào sẽ được hưởng lợi khi bỏ room?
Chuyên gia Nguyễn Tú Anh: Việc bỏ room tín dụng cần phải được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo an toàn vĩ mô, vì khi dỡ bỏ hạn chế này, môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ trở nên gay gắt hơn. Tuy nhiên, điều đó không phải là sẽ mang lại lợi ích lớn hơn cho các ngân hàng lớn (Big4),
Các ngân hàng cổ phần (NHCP) có năng lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn ở một số khía cạnh và họ hoàn toàn có khả năng vươn lên nếu không bị giới hạn về room tín dụng. “Thậm chí tôi đang lo ngại hơn cho các ngân hàng có vốn của nhà nước, bởi vì nhóm này bị hạn chế bởi nhiều thứ mà các ngân hàng cổ phần thì không”.
Hiện nay, việc tăng vốn đối với các ngân hàng có vốn nhà nước là rất khó khăn. Nếu các NHCP được tự do tăng tín dụng, họ sẽ nhanh chóng có khả năng tăng vốn. Khi NHCP tăng vốn nhanh chóng, họ sẽ dễ dàng đáp ứng các chỉ số an toàn và đủ điều kiện để mở rộng thị phần.
Và ở đây cuộc chiến về thị phần có thể các Big4 là những ngân hàng thua thiệt, chứ không phải các ngân hàng cổ phần. Trong môi trường kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Các ngân hàng nào quản trị tốt, có tầm nhìn và làm tốt sẽ thắng trong cuộc chơi này, như vậy phải chấp nhận cuộc chơi “fair".

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Tú Anh. (Ảnh: BTC).
Ông Lê Hoài Ân: Với nhóm ngân hàng quốc doanh, việc bỏ room tín dụng cũng không tác động quá lớn bởi họ tập trung tối ưu hoá hoạt động thay vì đẩy mạnh thị trường. Nếu bỏ room tín dụng, các nhóm ngân hàng tư nhân sẽ chịu tác động nhiều nhất nhưng hoàn toàn khác nhau.
Thứ nhất là, nhóm tập trung vào cho vay doanh nghiệp, họ sẽ có cơ hội tăng trưởng tốt nhưng vẫn phải giải bài toán về giới hạn 30%tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Nếu huy động 1.000 tỷ đồng cũng chỉ cho vay trung và dài hạn được 300 tỷ đồng. Dù muốn tăng trưởng cao nhưng huy động không bù được cho chuyện tăng trưởng thì họ sẽ phải giải bài toán về thay đổi cơ cấu tài sản huy động.
Thứ hai là nhóm chuyên về bán lẻ, dù có bỏ room nhưng với xu hướng dịch chuyển dòng chảy tín dụng từ cá nhân sang doanh nghiệp thì họ cũng không phát triển được nhiều.
Muốn đẩy mạnh tín dụng doanh nghiệp thì nhóm ngân hàng này sẽ mất thời gian để xây dựng chứ chưa thể đẩy mạnh được ngay.
Thứ ba, là nhóm các ngân hàng tư nhân nhỏ, khi bỏ room tín dụng họ sẽ gặp phải cạnh tranh ở “tứ phía”. Các ngân hàng nhỏ sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt hơn rất nhiều, bởi trước kia có room thì các ngân hàng lớn phải ưu tiên chọn lựa phân khúc khách hàng để cho vay vì khi sử dụng hết room cũng không được tăng thêm nhưng bây giờ khi không bị hạn chế, các ngân hàng lớn sẽ “đánh” vào nhiều phân khúc hơn, tạo áp lực cạnh tranh lên các ngân hàng vừa và nhỏ.
Khi bỏ room tín dụng NHNN cũng cần thay đổi cơ chế giám sát bằng việc siết lại hàng loạt chỉ số như: Hệ số CAR, tỷ lệ LPR, tỷ lệ SFLR, tỷ lệ NPL.
Đặc biệt, NHNN cần giám sát chặt sẽ để tránh xảy ra tình trạng dòng vốn chệch hướng sau khi bỏ room tín dụng.
Nếu một ngân hàng có tỷ lệ cho vay vào bất động sản hoặc các lĩnh vực rủi ro vượt mức giới hạn an toàn, NHNN cần có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính.
Năm nay sẽ là một năm bản lề của ngành ngân hàng để phục vụ phát triển lâu dài của nền kinh tế. Ở thời điểm hiện nay, vẫn nên dùng tín dụng doanh nghiệp để làm trọng tâm nhưng càng các năm về sau muốn nền kinh tế phát triển bắt buộc người dân phải tăng được thu nhập.