|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Tăng trưởng không đáng lo, vậy đâu mới là rủi ro tiềm ẩn với kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2022?

16:30 | 14/08/2022
Chia sẻ
Kinh tế Việt Nam có thể đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn trong nửa cuối năm 2022 như xuất khẩu chững lại do nhu cầu bên ngoài thấp hơn, áp lực lạm phát cao hơn, lãi suất tăng lên.

Quý III năm nay, kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng rất mạnh do mức nền thấp năm ngoái cùng với việc các lĩnh vực đều cho dấu hiệu hồi phục tích cực đặc biệt tại nhóm ngành dịch vụ với mức hồi phục vượt kỳ vọng. Tuy vậy, nền kinh tế những tháng cuối năm vẫn phải đối mặt với một số rủi ro nhất định trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động.

Xuất khẩu nguy cơ chững lại do nhu cầu bên ngoài thấp hơn

Sự phục hồi chậm và khó khăn của các đối tác thương mại lớn cùng với khả năng xảy ra suy thoái kinh tế thế giới trong ngắn hạn đang gia tăng là một trong những thách thức mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt. Điều này được Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Nguyễn Chí Dũng đề cập đến tại Hội nghị Thủ tướng đối thoại với doanh nghiệp diễn ra sáng 11/8.

Lo ngại trên càng trở nên có cơ sở khi số liệu thống kê mới nhất cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu có dấu hiệu giảm tốc. So với tháng liền trước hay so với cùng kỳ năm trước, xuất nhập khẩu tháng 7 đều giảm.

Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu tháng 7 giảm 7,7% và nhập khẩu giảm 6% so với tháng 6. So với cùng kỳ, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong tháng vừa qua đạt mức gần 9%, trước đó tháng 6 tăng đến hơn 23% so với cùng kỳ. Nhập khẩu tăng trưởng đạt 3,4% so với cùng kỳ năm ngoái (tháng 6 tăng 17,7% so với cùng kỳ). 

 

 

Nói thêm về kim ngạch xuất khẩu trong tháng 7 có sự sụt giảm so với tháng 6, báo cáo của Bộ Công Thương cho biết nguyên nhân chính là nhiều mặt hàng trong nhóm nông, lâm thủy sản và nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo chững lại. 

Cụ thể, trong tháng 7 nhóm hàng nông, lâm, thủy sản giảm 7,4% đã tác động đến kim ngạch chung. 

Đáng chú ý, mức giảm xuất hiện ở hầu hết các mặt hàng nông sản, (trừ rau quả và cao su), trong đó giảm nhiều nhất là phân bón các loại (giảm 33,3%). 

Tương tự, nhóm hàng công nghiệp chế biến trong tháng 7/2022 cũng chứng kiến mức giảm 7,2% so với tháng, chủ yếu do sự sụt giảm về kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm tới 22,6%; sắt thép các loại giảm 23,3%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện giảm 15,4%.

Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng chiến lược khác như: Xơ, sợi dệt các loại giảm 16,4%; gỗ và các sản phẩm gỗ giảm 7,5%; giầy dép các loại giảm 2,7%; dây điện và cáp điện giảm 2,3%; hàng dệt và may mặc chỉ tăng 0,4%... đã làm giảm kim ngạch xuất khẩu chung của nhóm hàng này.  

 

Mới đây, các chuyên gia của SSI Research cũng cảnh báo tăng trưởng các ngành xuất khẩu có thể bắt đầu suy giảm từ quý IV khi nhu cầu từ các đối tác thương mại chính của Việt Nam, đặc biệt là Mỹ có thể yếu đi rõ rệt.

"Nguy cơ kinh tế toàn cầu rơi vào trạng thái suy thoái đang ở mức cao. Ngay cả khi chu kỳ suy thoái này có thể ngắn hơn bình thường, tác động tiêu cực đến thương mại của Việt Nam có thể không tránh khỏi. Tuy nhiên, do Việt Nam là thành viên của nhiều hiệp định thương mại tự do nên vẫn có khả năng sẽ giảm thiểu được phần nào các tác động nói trên", SSI cho biết thêm.

 

Đồng quan điểm, CTCP Chứng khoán Bảo Việt( BVSC) cũng cảnh báo triển vọng xuất khẩu của Việt Nam trong các tháng cuối năm sẽ còn tiếp tục gặp khó khăn khi lạm phát ở các đối tác xuất khẩu chính vẫn đang ở mức rất cao và chưa có dấu hiệu lập đỉnh.

"Hiện tại, nền kinh tế Mỹ - đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam cũng đã rơi vào suy thoái kỹ thuật khi có quý thứ hai liên tiếp chứng kiến GDP suy giảm. Diễn biến này sẽ tác động tiêu cực tới cầu tiêu dùng, qua đó ảnh hưởng tới triển vọng xuất khẩu của Việt Nam", chuyên gia của BVSC cho biết. 

Lạc quan hơn, TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nhận định mặc dù kinh tế Mỹ đã có hai quý suy giảm liên tiếp, kinh tế và tổng cầu thế giới suy giảm, điều này có tác động nhưng không nhiều tới thương mại quốc tế của Việt Nam.

 

Theo chuyên gia, đa số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là hàng tiêu dùng thiết yếu, như hàng dệt may, da giày, sản phẩm nông nghiệp, thủy sản. Ở các nước khi suy thoái, người dân vẫn phải sử dụng những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu này.

Thêm nữa, giá trị các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đối với chi tiêu của các nước trên thế giới không lớn nên kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều. Thực tế trong 7 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nước ta đạt 216,35 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn được đánh giá là thị trường đầu tư hấp dẫn do hệ thống chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định.   

Doanh nghiệp gặp khó vì lạm phát tăng cao

Lạm phát vẫn là vấn đề lớn với Việt Nam, nhiều tổ chức cũng nhận định lạm phát sẽ còn tăng mạnh hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn còn công cụ để kiểm soát lạm phát trong năm nay. 

Bộ Tài chính mới đây cũng thừa nhận nửa cuối năm 2022 còn nhiều áp lực lên mặt bằng giá từ biến động phức tạp, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những yếu tố làm giảm lạm phát. 

Theo Bộ Tài chính, hiện nay, hầu hết các NHTW trên thế giới đều có những điều chỉnh chính sách trong đó chú trọng thắt chặt chính sách tiền tệ để ưu tiên kiểm soát lạm phát.

Khi lạm phát ở các nước được kiểm soát, áp lực từ môi trường bên ngoài có thể giúp kiểm soát lạm phát trong nước, kỳ vọng lạm phát được neo giữ tốt hơn.

 

Trong báo cáo mới đây, Bộ KH&ĐT cho rằng lạm phát nhiều khả năng sẽ là vấn đề dai dẳng trong trung hạn và ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội trong nước. 

Ở góc độ ảnh hưởng đến doanh nghiệp, tại hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp diễn ra sáng 11/8, ông Trương Văn Cẩm - Phó chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam chỉ ra một số tác động tiêu cực từ lạm phát.

Ông Cẩm cho hay lạm phát tại Mỹ và châu Âu đã ảnh hưởng đến sức mua của người lao động, khiến đơn hàng của ngành dệt may vốn phụ thuộc vào xuất khẩu có xu hướng giảm đi. Xung đột giữa Nga và Ukraine cũng đẩy chi phí nguyên vật liệu đầu vào và chi phí vận chuyển tăng cao. Riêng chi phí vận chuyển tăng gấp khoảng 3 lần so với 5 năm trước đây.  

Tổng hợp ý kiến của các hiệp hội doanh nghiệp, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng chỉ ra trong quý II, mức tăng chi phí của doanh nghiệp đang cao hơn tăng trưởng doanh thu so với quý trước và cùng kỳ năm ngoái.

Giá xăng dầu, nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Giá thành gói thầu xây dựng tăng 18-30% theo từng thời điểm, chi phí logistics tăng 3-5 lần.

Theo ông Dũng, tình trạng thiếu hụt lao động và quy định tăng lương tối thiểu vùng cũng tạo thêm áp lực cho doanh nghiệp. Họ phải tăng những khoản chi phí được tính tỷ lệ theo lương, trong khi giá bán ở các đơn hàng đã ký kết không thể thay đổi.

Ở một số ngành hàng, tình trạng thiếu hụt linh kiện cản trở hoạt động sản xuất. Lạm phát tăng cao trên toàn cầu cũng làm giảm sức mua tại những thị trường nước ngoài.

Bộ trưởng đề xuất cần tiếp tục hỗ trợ giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước.

Một trong số những biện pháp là nghiên cứu triển khai hỗ trợ một số đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề của giá xăng dầu như hỗ trợ ngư dân bám biển, hỗ trợ doanh nghiệp vận tải, người có thu nhập thấp.

Ông Dũng cho rằng cần đẩy mạnh triển khai những hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục đứt gãy nguồn cung, đa dạng hóa đối tác, nhà cung cấp nguyên, nhiên, phụ liệu và mở rộng thị trường, tránh phụ thuộc vào một số thị trường nhất định.

Áp lực lên lãi suất và tỷ giá

Trong báo cáo mới đây, các chuyên gia của CTCP Chứng khoán VNDirect đề cập đến rủi ro lãi suất tăng làm tăng chi phí và ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Đây sẽ là một trong những yếu tố khiến kinh tế Việt Nam năm nay có thể không tăng trưởng cao như kỳ vọng.

VNDirect cũng dự báo mọi động thái thắt chặt tiền tệ sẽ chỉ diễn ra vào cuối quý III hoặc quý IV năm nay và mức tăng (nếu có) sẽ hạn chế, khoảng 0,25-0,5%.  

Bộ phận phân tích Chứng khoán SSI (SSI Research) mới đây cảnh báo áp lực lên tỷ giá vẫn tương đối cao khi vẫn chưa xác định được thời điểm và mức độ tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).

Áp lực điều hành sẽ tăng hơn về cuối năm, khi lãi suất USD được kỳ vọng sẽ đạt 3,5% - 3,75% vào tháng 12 và lãi suất VND liên ngân hàng cần duy trì cao hơn mức trên nhằm giảm áp lực lên tỷ giá.    

Trong khi đó, TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho hay áp lực lạm phát tăng cao và việc một số đồng tiền chủ chốt do các ngân hàng trung ương tăng lãi suất mạnh sẽ gây áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, đặc biệt là vấn đề lãi suất, tỷ giá.

Tại sự kiện mới đây, ông Trần Ngọc Báu, Founder & CEO WiGroup cho rằng vấn đề làm NHNN đau đầu nhất hiện nay không phải là lạm phát mà là tỷ giá. Ông Báu cho rằng khi Fed tăng lãi suất thì dòng vốn sẽ bị ảnh hưởng nặng. Nếu mở cửa dòng vốn thì sẽ kích hoạt "bộ ba bất khả thi" đó là mở cửa dòng vốn, ổn định tỷ giá, độc lập chính sách tiền tệ.

"Nếu dự trữ ngoại hối đủ mạnh thì chúng ta có thể vừa mở cửa dòng vốn, vừa ổn định tỷ giá và vừa nới lỏng tiền tệ. Nhưng với việc trong 2- 3 tháng NHNN đã bán ra hơn 10% dự trữ ngoại hối thì không thể nào lấy dự trữ ngoại hối ra để sử dụng tiếp được", ông Báu phân tích. Do đó, chúng ta chấp nhận tỷ giá biến động và tiếp tục chính sách nới lỏng hay thắt chặt theo Fed để kiểm soát tỷ giá.  

Anh Đào