Giảm phát không phải chuyện lạ ở Trung Quốc nhưng chu kỳ lần này có thể rất đáng lo
Chu kỳ giảm phát dài nhất
Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu cải cách kinh tế vào cuối những năm 1970, giúp đất nước bước vào một thời kỳ tăng trưởng phi thường, giảm phát hầu như không xuất hiện, mãi cho đến năm 1998.
Tình trạng này bắt đầu từ tháng 4/1998, kéo dài hai năm cho đến tháng 5/2000. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có lúc ghi nhận mức giảm kỷ lục là 2,2% so với cùng kỳ.
Giá cả bắt đầu chầm chậm đi lên trong một năm rưỡi tiếp theo. Tuy nhiên, giảm phát tái diễn vào tháng 9/2001 và CPI tiếp tục giảm so với cùng kỳ cho đến đầu năm 2003.
Tình trạng giảm phát xuất hiện tại Trung Quốc là do những cú sốc nguồn cung mang tính tạm thời cũng như dài hạn, bên cạnh những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Giá dầu thô đi xuống, cùng với việc Trung Quốc hạ thuế quan đối với nhiều hàng hoá nhập khẩu sau khi nước này gia nhập Tổ thức Thương mại Thế giới (WTO), khiến giá cả trong nền kinh tế giảm sút. Đây chính là cú sốc nguồn cung tạm thời.
Trong khi đó, yếu tố thứ hai gắn liền với việc năng suất lao động của Trung Quốc tăng mạnh, dẫn đến tổng cung mở rộng nhanh hơn tổng cầu, dễ khiến giá cả trong nền kinh tế sụt giảm.
Năng suất của người Trung Quốc tăng là nhờ chính phủ thực hiện các cải cách kinh tế sâu rộng từ năm 1978, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng, xuất khẩu mạnh lên nhờ lợi thế chi phí lao động thấp và tỷ giá hối đoái có tính cạnh tranh cao.
Hơn nữa, đầu tư vào lĩnh vực công nghệ tăng dần theo thời gian cũng giúp ích cho năng suất lao động. Trong giai đoạn 1979 - 2000, mỗi năm năng suất lao động của Trung Quốc tăng trung bình 4,5%, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Nguyên nhân thứ ba bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997 - 1998). Từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Thái Lan, sự việc nhanh chóng phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính trên khắp châu lục.
Ngày 2/7/1997, không lâu sau khi Thủ tướng Thái Lan khi đó tuyên bố “Tôi sẽ không bao giờ cho phép đồng baht mất giá”, Bangkok đã phải chấp nhận thả nổi đồng nội tệ, khiến đồng tiền ngay lập tức sụt 20%.
Tình hình mất kiểm soát. Cuộc khủng hoảng lan sang các nền kinh tế châu Á khác như Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc. Có thời điểm, đồng rupiah của Indonesia mất hơn 80% giá trị so với đồng USD. Nhiều tổ chức tài chính vỡ nợ, không ít ngân hàng sụp đổ và khu vự châu Á chìm vào một cuộc suy thoái đáng sợ.
Các nhà kinh tế Trung Quốc cho rằng “thuốc chữa” cho căn bệnh nặng này là nới lỏng tiền tệ, kích thích tài khoá và hạ giá đồng nội tệ.
Song, Thủ tướng Trung Quốc lúc bấy giờ là Chu Dung Cơ cho rằng, nếu Trung Quốc đi con đường đó, các nước láng giềng sẽ phá giá tiền tệ hơn nữa, chỉ khoét sâu thiệt hại của cuộc khủng hoảng trên khắp châu Á.
Cuối cùng, Bắc Kinh đã quyết định giữ ổn định đồng nhân dân tệ (CNY). Đây là một nước đi táo bạo đối với một quốc gia đang phụ thuộc vào xuất khẩu để thúc đẩy kinh tế như Trung Quốc. Cuối cùng, động thái này đã cứu châu Á một bàn.
Ông Paul Gruenwalk, kinh tế trưởng khu vực châu Á - Thái Bình Dương của S&P Global Ratings, từng chia sẻ với Bloomberg: “Mọi người đều lo sợ rằng cuộc khủng hoảng sẽ leo thang, nên việc Trung Quốc giữ vững tỷ giá đã tiếp thêm sự ổn định cho khu vực”.
Cú sốc từ khủng hoảng tài chính toàn cầu
Tháng 2/2009, CPI của Trung Quốc bất ngờ sụt 1,6% so với cùng kỳ, đánh dấu lần đầu tiên giá tiêu dùng giảm kể từ năm 2003. Dù vậy, cần lưu ý rằng mức nền của cùng kỳ năm 2008 khá cao, khi lạm phát đạt đỉnh 12 năm là 8,7%.
Tình trạng giảm phát kéo dài khoảng 9 tháng. Bước sang tháng 11 cùng năm, giá cả bắt đầu tăng trở lại khi CPI đi lên 0,6% so với cùng kỳ (như thể hiện trong biểu đồ đầu tiên).
Hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu, giá hàng hoá công nghiệp trên đà giảm đã khiến giá thành phẩm tại Trung Quốc hạ nhiệt đáng kể và là một nguyên nhân dẫn đến giảm phát.
Chỉ riêng trong tháng 2/2009, giá nguyên liệu thô toàn cầu, tiêu biểu là dầu thô, đã lao dốc 48,8% so với một năm trước, báo cáo của Tổng cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) chỉ ra.
Dưới tác động của khủng hoảng, tăng trưởng GDP toàn cầu đã rơi xuống mức âm vào năm 2009, thị trường tín dụng quốc tế đóng băng, thương mại toàn cầu thu hẹp và hàng chục triệu người bị mất việc.
Kinh tế ảm đạm, nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài Trung Quốc đều suy yếu. Tăng trưởng xuất khẩu của nước này âm liên tiếp 13 tháng so với cùng kỳ, từ tháng 11/2008 đến 11/2009. Công suất nhà máy trở nên dư thừa.
Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thành công thoát khỏi bẫy giảm phát. Không những vậy, nước này còn trở thành người giải cứu nền kinh tế toàn cầu thông qua gói kích thích trị tài khoá giá 4.000 tỷ NDT, tương đương 27% GDP năm 2008.
Các ngân hàng do nhà nước kiểm soát, vốn chịu ít tổn thất hơn các nhà băng phương Tây, cũng đẩy mạnh hoạt động cho vay theo chỉ đạo của chính phủ.
Bắc Kinh còn đóng vai trò lớn hơn trên thị trường, can thiệp vào giá cả. Có thời điểm chính phủ đã nâng giá mua gạo và lúa mì thêm 18%, theo New York Times.
Ngân hàng trung ương cũng hành động để ngăn đồng CNY tăng giá, làm tổn hại tính cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc ở thị trường nước ngoài.
Tăng trưởng GDP thế giới đã chuyển động theo chiều từ -1,3% năm 2009 lên gần 4,5% trong năm 2010 và tiếp tục duy trì ở mức dương trong nhiều năm sau; nhiều quốc gia thoát suy thoái nhờ chính sách của Trung Quốc.
Đợt giảm phát chóng vánh
Tháng 11/2020, giá tiêu dùng của Trung đã lần đầu rơi xuống mức âm sau 11 năm. Dữ liệu của NBS cho thấy, CPI sụt 0,5% so với một năm trước.
Giá thực phẩm giảm 2,2% so với cùng kỳ là nguyên nhân khiến giảm phát xuất hiện. Trong đó, giá thịt heo, loại protein chính trên bàn ăn của người Trung Quốc, đi xuống 12,5% khi nguồn cung phục hồi sau khi dịch tả heo châu Phi được kiểm soát.
Khi đó, một số nhà kinh tế lo ngại tình trạng giảm phát sẽ kéo dài lâu hơn, đè nặng lên tăng trưởng trong bối cảnh đại dịch COVID-19 chỉ mới lắng dịu. Song, đây là đợt giảm phát chóng vánh bởi CPI chỉ giảm so với cùng kỳ trong ba tháng không liên tục tính đến đầu năm 2021.
Ác mộng của Nhật Bản tái hiện ở Trung Quốc?
Tính từ đầu năm 2023, CPI của Trung Quốc tăng rất thấp hoặc không thay đổi so với cùng kỳ. Sau đó, thước đo này đã bất ngờ giảm 0,3% vào tháng 7, lần đầu tiên trong hơn hai năm qua.
Cùng lúc, chỉ số giá sản xuất (PPI) đã giảm trong 10 tháng liên tiếp tính đến tháng 7. Cả hai làm dấy lên nỗi lo rằng giảm phát sẽ kéo dài dai dẳng, đẩy Trung Quốc vào cơn ác mộng từng ám ảnh Nhật Bản trong “thập kỷ mất mát”.
Trong thập kỷ mất mát, tăng trưởng GDP trung bình của Nhật Bản là 1,2%, thấp hơn nhiều so với các nước G7 khác. Nước này phải dành hơn 25 năm chống giảm phát và những dấu hiệu tích cực chỉ mới xuất hiện trong nửa đầu năm 2023.
Tại một quốc gia nặng nợ như Trung Quốc, với tỷ lệ nợ tương đương 281,5% GDP tại thời điểm quý II/2023, giảm phát còn là rủi ro đặc biệt nghiêm trọng, là dấu hiệu kinh tế đang suy yếu.
Trên thực tế, đã gần 8 tháng kể từ khi chính quyền Chủ tịch Tập Cận Bình loại bỏ các biện pháp kiểm soát dịch bệnh hà khắc từng bóp nghẹt tăng trưởng trong hơn ba năm trước.
Sau khi bùng nổ ở giai đoạn đầu mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã chậm lại. Viễn cảnh giảm phát kéo dài chỉ làm phức tạp thêm những rắc rối của Bắc Kinh.
Mô hình tăng trưởng kiểu cũ đã không còn hiệu quả và hai động cơ tăng trưởng chính trong quá khứ là xuất khẩu và bất động sản đều đang bị trục trặc.
Kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm 14,5% so với cùng kỳ vào tháng 7. Xuất khẩu qua Mỹ và EU lao dốc lần lượt 23,1% và 20,6%, một phần do nhu cầu tiêu dùng chững lại dưới tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt ở phương Tây.
Việc các nước tìm kiếm đối tác mới nhằm giảm bớt rủi ro với thị trường tỷ dân cũng tác động đến xuất khẩu của nước này. Đầu năm nay, Mexico đã vượt Trung Quốc, lấy lại ngôi vị đối tác thương mại số một của Mỹ.
Cùng lúc, giá nhà cùng doanh số bán nhà tại Trung Quốc vẫn đang ngụp lặn sau khi Bắc Kinh thực hiện các chính sách kiềm chế thói quen vay nợ của doanh nghiệp như “ba lằn ranh đỏ”.
Một cuộc vỡ nợ của Country Garden, từng là nhà phát triển lớn nhất Trung Quốc theo doanh thu trong 5 năm liền, có thể khiến niềm tin của người mua nhà trì trệ hơn nữa.
Một số nhà kinh tế cảnh báo thị trường bất động sản có thể sẽ xuất hiện “khoảnh khắc Lehman”, từ đó kích hoạt một cuộc khủng hoảng tài chính trên quy mô lớn.
Ngoài ra, Trung Quốc còn phải đối mặt với những bất lợi về nhân khẩu học. Người trẻ ngày càng ngại kết hôn, khiến tỷ lệ sinh sụt giảm. Dân số cũng đang già hoá, khiến lực lượng lao động thu hẹp và chi phí an sinh xã hội phình to hơn.
Năm 2022, tỷ lệ sinh đã tụt xuống mức thấp kỷ lục là 1,09 trẻ/phụ nữ. Trong năm nay, số ca sinh của nước này có thể chỉ đạt khoảng 7 đến 8 triệu, theo Trung tâm Kho học Y tế thuộc Đại học Bắc Kinh.
Một vấn đề khác nữa là tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm người trẻ từ 16 đến 24 tuổi liên tục tăng trong nhiều tháng qua và đạt đỉnh lịch sử là 21,6% vào tháng 7.
Bên cạnh đó, mối quan hệ rạn nứt với Mỹ cũng khiến Trung Quốc khó tiếp cận các công nghệ cần thiết cho nền kinh tế kiểu mới như chất bán dẫn.
Đáng lẽ, Bắc Kinh phải bơm kích thích để thúc đẩy tăng trưởng và giá tiêu dùng đi lên. Song, khối nợ trong nền kinh tế đã khiến các nhà lãnh đạo chần chừ nới lỏng tài khoá, và nỗi sợ dòng vốn tháo chạy cũng khiến ngân hàng trung ương không thể nới lỏng tiền tệ.
Trung Quốc đặt mục tiêu tăng trưởng năm 2023 là khoảng 5%, nhưng loạt ngân hàng Phố Wall gồm Morgan Stanley, Bank of America,...đều cảnh báo khả năng Bắc Kinh bỏ lỡ mục tiêu năm nay do triển vọng kinh tế kém tươi sáng.
Giáo sư Eswar Prasad tại Đại học Cornell, cựu quan chức cấp cao của IMF, nhận định: “Nền kinh tế Trung Quốc đang đối mặt trực tiếp với bóng ma giảm phát, chính phủ cần tăng các biện pháp kích thích nền kinh tế và có lẽ quan trọng hơn cả là xây dựng lại niềm tin của người dân và doanh nghiệp”.