Từ khoá kinh tế 2025: Thuế quan, Fed, AI và những bài toán cấp bách toàn cầu
Kể từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện vào năm 2020, nhiều người có cảm tưởng rằng nền kinh tế thế giới không còn êm ả như trước. Sau dịch bệnh, lạm phát, chu kỳ tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương (NHTW) và nhiều vấn đề khác đã làm đảo lộn đáng kể hoạt động kinh tế nói chung.
Bởi vậy nên, khi truyền thông rầm rộ xướng tên ông Donald Trump là người chiến thắng cuộc đua tổng thống Mỹ vào cuối năm 2024, cả thế giới có lẽ đã lường trước rằng 2025 sẽ tiếp tục là một năm đầy biến động khác với sự trở lại của một người đàn ông quyền lực nhưng hay thay đổi.
Tại Điện Capitol vào ngày 20/1/2025, ông Trump chính thức tuyên thệ trở thành Tổng thống Mỹ thứ 47. Lần trở lại này, nhà lãnh đạo 78 tuổi đã dày dạn kinh nghiệm đối nội, đối ngoại và điều hành kinh tế hơn so với 8 năm trước.
Nhờ đó, chính quyền mới nhanh chóng thực hiện một loạt quyết sách gồm tinh gọn bộ máy viên chức, trục xuất lao động nhập cư bất hợp pháp,... với sự giúp sức của những bộ óc nổi tiếng như tỷ phú xe điện Elon Musk.
Tuy nhiên, trọng tâm trong chương trình nghị sự của ông Trump là nắn chỉnh lại dòng chảy thương mại quốc tế nhằm đảm bảo lợi ích của Mỹ và công cụ chính mà ông sử dụng rất quen thuộc: thuế quan.
Chính sách thuế quan trong nhiệm kỳ thứ hai của ông Trump được triển khai theo hai hướng chính là thuế quan theo ngành và thuế quan đối ứng - một hệ thống thuế nhập khẩu chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nước Mỹ.
Dựa theo Mục 232 của Đạo luật Mở rộng Thương mại năm 1962, nhôm, thép và đồng là ba mặt hàng đầu tiên rơi vào tầm ngắm thuế quan của Nhà Trắng. Sau đó, danh sách áp thuế tiếp tục mở rộng với ô tô và linh kiện ô tô, gỗ và nội thất bằng gỗ. Mức thuế dao động trong khoảng 10- 50%.
Trong tương lai, chính quyền ông Trump dự kiến sẽ bổ sung nhiều mặt hàng có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh quốc gia vào danh sách áp thuế, chẳng hạn như chất bán dẫn, động cơ máy bay, dược phẩm,...
Thuế quan theo ngành khiến cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước Mỹ đổ mồ hôi hột vì nỗi lo đứt gãy nguồn cung một số mặt hàng. Tuy nhiên, thuế quan đối ứng mới là chính sách khiến thế giới đứng ngồi không yên.
Trong khuôn viên Nhà Trắng vào đầu tháng 4, ông Trump giơ cao tấm bảng công bố mức thuế đối ứng dành cho hàng chục đối tác thương mại lớn nhỏ của Mỹ. Các con số cao vượt tưởng tượng của giới chuyên gia, châm ngòi cho làn sóng bán tháo tài sản toàn cầu.
Trong phòng họp, lãnh đạo doanh nghiệp và chính phủ nhiều nước trở nên bất an, dù nhiều người đã chuẩn bị sẵn cho cơn bão thuế quan bằng cách đẩy mạnh mua hàng cũng như xuất khẩu hàng hoá trước khi ông Trump trở lại ghế nóng.
May thay, do phản ứng dữ dội từ phía thị trường và động thái nhanh chóng ngồi vào bàn đàm phán của các nước, ông Trump đã đồng ý giảm đáng kể mức thuế so với kế hoạch ban đầu.
Kết quả là, Mỹ đang áp thuế tối thiểu 10% đối với hầu hết các đối tác thương mại, 15% đối với các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có thặng dư thương mại hàng hoá nhỏ hoặc đã đạt thoả thuận với Washington.
Hơn 20 nền kinh tế khác (gồm cả các đối tác đã đạt thoả thuận với Mỹ) chịu mức thuế cao hơn, dao động trong khoảng 18 - 41%. Syria là nước chịu mức thuế cao nhất 41%, tiếp theo là Lào và Myanmar cùng chịu thuế 40%. Việt Nam đối mặt mức thuế 20%.
Hai quốc gia láng giềng của Mỹ là Canada và Mexico không nằm trong cơ chế thuế đối ứng mà bị áp thuế theo diện đặc biệt, liên quan đến nạn buôn lậu fentanyl vào Mỹ. Song, phần lớn hàng hoá đang hưởng miễn trừ theo một thoả thuận khu vực.
Nhìn chung, sau nhiều thay đổi từ Nhà Trắng, thuế suất hiệu lực trung bình của Mỹ đã giảm mạnh từ mức 28% hồi đầu năm xuống còn khoảng 16,8%. Tuy nhiên, đây vẫn là mức thuế nhập khẩu cao nhất kể từ thập niên 1930.
Tuy nhiên, hàng rào thuế quan cao ngất của ông Trump đã góp phần hâm nóng xung đột giữa hai đối thủ kinh tế lâu năm là Mỹ và Trung Quốc.
Có thời điểm căng thẳng giữa hai nước khiến công chúng không thể rời mắt khỏi các tít báo bởi hệ quả từ cuộc xung đột thương mại có nguy cơ kéo tụt tăng trưởng kinh tế và làm đứt gãy nghiêm trọng hơn dòng chảy thương mại toàn cầu.
Đỉnh điểm, mức thuế quan mà Washington và Bắc Kinh áp lên hàng hoá của nhau từng vượt quá ba chữ số và căng thẳng lan sang những mặt trận mới bao gồm xuất khẩu công nghệ và đất hiếm.
Sau nhiều vòng đàm phán, hai siêu cường kinh tế lớn nhất thế giới đã đồng ý hạ thuế quan trừng phạt xuống dưới mức hai chữ số. Một trong những lý do chính buộc Mỹ phải xuống thang căng thẳng là lá bài đất hiếm của Trung Quốc.
Hiện tại, quốc gia tỷ dân đang nắm ưu thế thống trị khi kiểm soát hơn 70% hoạt động khai thác và 87% công suất chế biến đất hiếm - một nhóm kim loại quý đóng vai trò quyết định đối với nhiều công nghệ tiên tiến như chất bán dẫn, vũ khí quốc phòng,...
Ở một diễn biến khác, do bất ổn thuế quan, xung đột thương mại và căng thẳng địa chính trị không dứt tại nhiều khu vực, nhu cầu phòng vệ của các nhà đầu tư cũng gia tăng. Điều đó đã thúc đẩy họ tìm đến hai kim loại quý khác là vàng và bạc - những hầm trú ẩn an toàn trong thời kỳ bất ổn.
Cùng với lực mua mạnh mẽ của các NHTW - trung bình hơn 1.000 tấn mỗi năm trong ba năm gần đây - giá hai kim loại quý liên tục phá kỷ lục trong năm 2025. Tính từ đầu năm đến phiên 26/12, giá vàng đã tăng khoảng 70%, trong khi giá bạc phi mã hơn 150%.
Quay trở lại câu chuyện chính của năm nay, thuế quan không chỉ nhen nhóm căng thẳng thương mại giữa Mỹ với các đối tác mà còn bộc lộ một tác dụng phụ khác: một lượng hàng hoá Trung Quốc khổng lồ đáng lẽ sẽ xuất khẩu đến Mỹ nhưng nay phải tìm đường đến các thị trường khác.
Dữ liệu chính thức cho thấy Trung Quốc đã thành công duy trì xuất khẩu - động cơ quan trọng nhất bây giờ của nền kinh tế. Nhờ tỷ trọng ngày càng lớn của các thị trường mới, Trung Quốc đã thặng dư thương mại hàng hoá 1.076 tỷ USD trong 11 tháng đầu năm, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc đang gây lo ngại ở nước ngoài. Chính phủ nhiều nước đang cố gắng đánh giá thiệt hại tiềm tàng đối với các ngành công nghiệp địa phương do hàng hoá giá rẻ Trung Quốc.
Trong năm nay, chỉ Mexico công khai phản ứng trước làn sóng hàng hoá Trung Quốc bằng thông báo áp thuế lên đến 50% đối với các sản phẩm Trung Quốc như ô tô, phụ tùng ô tô và thép. Nhiều quốc gia khác đang đứng trước áp lực phải hành động để bảo vệ việc làm trong nước.
Song song với chính sách thuế quan làm rung chuyển thế giới của ông Trump, nền kinh tế toàn cầu và cộng đồng đầu tư năm nay cũng đứng ngồi không yên với chu kỳ hạ lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Kể từ lần giảm lãi suất vào tháng 12/2024, Fed án binh bất động trong liên tiếp nhiều cuộc họp khi thuế quan khiến các nhà hoạch định chính sách khó đánh giá chính xác bức tranh lạm phát.
Đến cuộc họp tháng 9, NHTW Mỹ mới hành động trở lại. Và tính đến cuối năm 2025, Fed đã hạ lãi suất ba lần liên tiếp tổng cộng 75 điểm cơ bản, qua đó đưa chi phí đi vay liên ngân hàng xuống phạm vi mục tiêu 3,5 - 3,75%.
Động lực để các nhà hoạch định chính sách thả phanh lãi suất trở lại là những dấu hiệu suy yếu kéo dài trên thị trường lao động. Trong thời gian đó, họ tạm gác nỗi lo lạm phát sang một bên.
Tuy nhiên, Fed đang tỏ ra diều hâu hơn. Tại cuộc họp cuối cùng của năm 2025, các quan chức dự kiến sẽ chỉ hạ lãi suất một lần trong năm 2026 và tập trung hơn vào áp lực giá bởi lạm phát đã duy trì trên mức mục tiêu 2% trong hơn 4 năm.
Ở một diễn biến khác, Fed đã chính thức chấm dứt thắt chặt định lượng (QT) và bắt đầu mở rộng bảng cân đối kế toán bằng cách mua vào 40 tỷ USD tín phiếu kho bạc mỗi tháng từ tháng 12, sau đó giảm dần cho đến mùa xuân năm 2026.
Động thái này không phải là nới lỏng định lượng (QE). Thay vào đó, NHTW Mỹ có vẻ đang cố gắng bổ sung thanh khoản cho các nhà băng với mục đích giảm bớt áp lực hệ thống.
Cần lưu ý rằng hành trình năm 2026 của Fed sẽ không dễ dàng khi đội ngũ nhân sự chủ chốt bị xáo trộn, tính độc lập bị đe doạ dưới sức ép liên tục từ ông Trump và cơ quan này phải đối mặt hệ quả từ đợt đóng cửa kỷ lục 43 ngày của chính phủ.
Đầu tiên, Hội đồng Thống đốc Fed sẽ chứng kiến một số thay đổi về thành viên khi ông Stephen Miran (người thân cận với ông Trump) kết thúc nhiệm kỳ và cuộc chiến pháp lý giữa bà Lisa Cook với chủ nhân Nhà Trắng ngã ngũ.
Tuy nhiên, ẩn số quan trọng nhất trong bài toán chính sách tiền tệ năm 2026 là vị trí lãnh đạo NHTW Mỹ, bởi nhiệm kỳ của Chủ tịch đương nhiệm Jerome Powell sẽ kết thúc vào tháng 5.
Ông Trump đang lựa chọn ứng viên thay thế ông Powell và nhiều khả năng người này sẽ ủng hộ giảm mạnh lãi suất. Chưa kể, ông Trump còn muốn tổng thống có tiếng nói lớn hơn trong quá trình ấn định lãi suất. Rõ ràng điều này có nguy cơ làm xói mòn tính độc lập của Fed.
Trong khi đó, một hệ luỵ của đợt đóng cửa chính phủ là sự vắng mặt/chậm trễ của các dữ liệu kinh tế quan trọng. Điều này khiến Fed khó có cái nhìn tổng thể về nền kinh tế, khiến quá trình hoạch định tiền tệ càng trở nên phức tạp, đặc biệt là khi hai mục tiêu của NHTW này đang mâu thuẫn nhau.
Trái ngược với chu kỳ nới lỏng tiền tệ tại Mỹ, NHTW Nhật Bản (BoJ) đang trong quá trình bình thường hoá chính sách sau gần một thập kỷ duy trì lãi suất âm nhằm kéo nền kinh tế ra khỏi vũng lầy giảm phát.
Kể từ đầu năm 2024, BoJ đã tăng lãi suất 4 lần và đưa chi phí đi vay chuẩn lên mức đỉnh 30 năm. Các đợt tăng lãi suất trong tương lai có thể không đến nhanh hay dồn dập, nhưng chắc chắn là điều tất yếu phải xảy ra khi lạm phát và tiền lương của người lao động đều đi lên.
Chu kỳ thắt chặt tiền tệ của Nhật Bản sẽ gây ra một cú sốc cực lớn cho các nhà đầu tư toàn cầu. Thị trường từng trải nghiệm một phần nhỏ của cơn địa chấn tiềm tàng đó vào tháng 8/2024 sau khi BoJ nâng lãi suất lần thứ hai lên 0,25%, khiến vốn hoá chứng khoán toàn cầu bốc hơi 6.400 tỷ USD chỉ trong ba tuần.
Trong một thập kỷ qua, thông qua chiến lược yen carry trade, nguồn vốn giá rẻ từ Nhật Bản đã giúp thúc đẩy giá tài sản toàn cầu đi lên và biến Nhật Bản trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới với lượng tài sản nước ngoài khổng lồ.
Khi lãi suất tại Nhật Bản tăng, các tài sản tại đất nước này sẽ trở nên hấp dẫn hơn, hút ngược dòng vốn quay trở lại. Tuy không có ước tính cụ thể, một số tổ chức cho rằng quy mô của chiến lược yen carry trade có thể lên đến hàng nghìn tỷ USD.
Bên cạnh những điểm nóng về chính sách tiền tệ, mặt trận tài khoá năm nay cũng chứng kiến những vấn đề nhức nhối, chẳng hạn như việc khối nợ ngày càng phình to tại các nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Đặc biệt, Mỹ, Anh và Pháp - ba nền kinh tế thuộc nhóm G7 - đang có một điểm chung đáng ngại: nợ công tăng cao đến mức không bền vững, khoét sâu rạn nứt bên trong chính phủ và đe doạ đẩy thị trường tài chính vào tình trạng rối loạn.
Do nhiều năm chi tiêu mất kiểm soát, Mỹ hiện là con nợ lớn nhất thế giới với tổng nợ công hơn 38.000 tỷ USD. Vấn đề ngân sách thường xuyên gây ra bất ổn, đơn cử như đợt đóng cửa chính phủ trong năm nay.
Dữ liệu cho thấy tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ chạm mức 120,8% vào năm 2024, thuộc nhóm cao nhất thế giới. Chi phí trả lãi vay ròng của chính phủ tăng nóng 34% lên 949 tỷ USD, lần đầu tiên vượt cả chi tiêu cho quốc phòng.
Tình hình tài khoá của Anh và Pháp cũng không khả quan hơn. Giống với Mỹ, các chính trị gia tại hai cường quốc châu Âu cũng có xu hướng ủng hộ những chính sách khiến nợ công tăng cao hơn.
Pháp thâm hụt ngân sách triền miên từ năm 1974 và chính phủ phải liên tục vay nợ để chi tiêu. Đây là một trong ba quốc gia có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất Liên minh châu Âu - đạt 113,1% vào năm 2024. Chỉ trong vài năm ngắn ngủi, liên tiếp nhiều thủ tướng Pháp đã phải từ chức vì rắc rối tài khoá.
Tại Anh, nợ công tương đương 101,3% GDP năm 2024 và lãi vay là gánh nặng lớn cho chính phủ. Năm ngoái, chi phí trả lãi chiếm hơn 8% chi tiêu công và cao gấp đôi chi tiêu cho quốc phòng.
Cho đến nay, chính phủ các nước kể trên vẫn chưa tìm ra giải pháp bền vững nào để thoả mãn cả ngân sách, cử tri và thị trường. Bất kỳ đánh đổi nào cũng để lại hậu quả lâu dài cho nền kinh tế từng nước, nhưng càng chần chợ thì bom nợ càng trở nên nguy hiểm hơn.
Dân số già hoá và tỷ suất sinh sụt giảm khiến lực lượng lao động ngày càng thu hẹp cũng là một quả tạ đè nặng lên chi tiêu ngân sách của chính phủ. Xu hướng này không chỉ diễn ra trong nhóm kinh tế phát triển mà còn bắt đầu trở thành một tín hiệu đáng lo tại các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Đầu năm nay, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc và YouGov đã công bố một khảo sát đáng báo động. Tỷ suất sinh đã giảm xuống dưới mức 2,1 ca sinh trên mỗi phụ nữ - ngưỡng cần thiết để duy trì dân số ổn định mà không cần nhập cư - tại hơn một nửa số quốc gia được khảo sát.
Trước đó, Liên Hợp Quốc dự báo dân số thế giới sẽ đạt đỉnh khoảng 10,3 tỷ người vào giữa thập niên 2080 và sau đó giảm dần, cho thấy xu hướng già hóa sẽ tiếp tục mạnh lên trong thế kỷ 21.
Một phân tích khác từ Đại học Washington của Mỹ cho thấy có tới 75% số quốc gia trên thế giới sẽ không đạt tỷ lệ sinh đủ để duy trì quy mô dân số vào năm 2050. Đến năm 2100, tình trạng này sẽ xảy ra ở 97% các quốc gia.
Dân số già hoá sẽ gây ra những hậu quả nặng nề, trở thành quả bom nổ chậm cho nền kinh tế toàn cầu như gây thiếu hụt lao động trẻ, tăng gánh nặng an sinh xã hội (đặc biệt là về y tế, lương hưu), đè nặng lênchi tiêu ngân sách,...
Tuy nhiên, một mặt tích cực của xu hướng già hoá dân số là sự ra đời của mô hình "nền kinh tế bạc" tập trung vào đảm bảo đời sống cũng như tận dụng lượng tài sản tích luỹ khổng lồ của người già để thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Mô hình này đã xuất hiện tại Trung Quốc từ vài năm trước và đang bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Theo hãng tư vấn Verified Market Reports, ước tính quy mô nền kinh tế bạc toàn cầu đạt khoảng 15.000 tỷ USD vào năm 2025 và dự kiến sẽ tăng lên 27.000 tỷ USD vào năm 2050.
Một thống kê của nền tảng Visibrain cho thấy người đàn ông quyền lực Donald Trump đã được nhắc tên 236 triệu lần kể từ khi tái đắc cử vào đầu năm nay. Thiết nghĩ, trong bối cảnh cơn sốt trí tuệ nhân tạo lan đến mọi ngóc ngách, số lượt nhắc đến cụm từ “AI” có khả năng ngang bằng từ khoá “Donald Trump”.
Quả thực trong năm nay, cơn sốt AI đã góp phần tạo ra nhiều kỷ lục như kéo chỉ số S&P 500 tăng 18% lên mức cao nhất từ trước đến nay; giúp Nvidia trở thành doanh nghiệp đầu tiên phá mốc vốn hoá 4.000 tỷ USD; nâng đỡ OpenAI thành công ty tư nhân giá trị nhất thế giới với quy mô 500 tỷ USD; biến Elon Musk thành tỷ phú đầu tiên có hơn 600 tỷ USD tài sản ròng,...
Đó là còn chưa kể đến dòng vốn đầu tư kỷ lục đang chảy vào các lĩnh vực phát triển phần cứng, trung tâm dữ liệu,... trong bối cảnh nhiều người kỳ vọng AI sẽ giúp cải thiện năng suất lao động và trở thành động cơ tăng trưởng mới của nền kinh tế toàn cầu khi những động lực cũ dần suy yếu.
Theo một báo cáo của công ty tư vấn Gartner, tổng chi tiêu toàn cầu cho AI sẽ đạt khoảng 1.500 tỷ USD trong năm nay và tăng lên hơn 2.000 tỷ USD vào năm 2026. Riêng chi tiêu vốn của các ông lớn công nghệ Mỹ (Alphabet, Amazon, Meta, Microsoft, Nvidia và Tesla) đã có thể đạt từ 300 đến hơn 400 tỷ USD.
Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư khổng lồ vào AI cho đến nay chưa tạo ra kết quả thực chất nào. Điều này đặt ra câu hỏi liệu đây có phải một bong bóng giống cơn sốt dot-com hai thập kỷ trước hay đây là một công nghệ cần có thời gian để thực sự thay đổi thế giới. Nếu AI là bong bóng, hậu quả cho nền kinh tế nói chung là vô cùng lớn nếu bong bóng vỡ tung.
