|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kinh doanh

Ngày Tết về vựa lá dong Hưng Yên: Nghề hái lá đếm tiền đô

09:00 | 28/01/2025
Chia sẻ
Từ những cánh đồng xanh mướt ở Đông Kết, lá dong không chỉ gói trọn hương vị Tết cổ truyền mà còn mang theo niềm tự hào quê hương, lan tỏa sắc xuân đến mọi miền.

Đông Kết vào mùa lá dong Tết

Những ngày cuối năm, khi tiết trời rét ngọt tràn về trên vùng quê Đông Kết, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, không khí làng quê trở nên rộn ràng hơn bao giờ hết. Cả làng, từ già đến trẻ, tất bật thu hoạch lá dong – loại lá xanh ngọc đặc biệt đã trở thành biểu tượng cho Tết cổ truyền của người Việt. 

Từng đoàn người từ sáng sớm đã ra đồng cắt lá. Khắp đường làng, ngõ nhỏ, đâu đâu cũng thấy những bó lá dong xanh mướt được bó thành từng bó trăm chiếc, xếp chồng lên xe đạp, xe máy, chuẩn bị đưa ra các chợ lớn. 

Bà Đỗ Thị Tỵ, năm nay đã 74 tuổi, ngồi bên những bó lá dong vừa cắt, kể chuyện với giọng tự hào: “Cây lá dong này đã theo làng từ thời ông bà tôi. Chúng tôi trồng xen dưới bóng nhãn, bưởi, mùa nào thức nấy. Con cháu đi làm xa, tôi ở nhà chăm vài sào lá dong, vừa có niềm vui vừa có thu nhập”.

Bà Đỗ Thị Tỵ tại Khoái Châu, Hưng Yên đang thu hoạch lá dong. (Ảnh: Đức Huy).

Theo bà Tỵ, vào dịp Tết, làng sẽ bán lá dong cả sỉ và lẻ. Mỗi năm, dù có nhiều đợt thu hoạch nhưng tháng Chạp luôn là mùa bận rộn nhất. Lá dong gắn với bánh chưng ngày Tết, nên ai nấy đều làm việc không ngơi tay để kịp giao hàng.

Ông Nguyễn Bá Hiền, người dân xóm 19, chia sẻ: “Nhà tôi có hơn một mẫu lá dong. Năm nay sản lượng giảm một nửa nhưng giá lại tăng, đạt 95.000 đồng mỗi trăm lá. Lá đẹp là lá có bản rộng, xanh lục đều, không sâu bệnh, không rách. Lá lớn dùng gói bánh chưng to phải rộng 30 - 35 cm, dài 50 - 60 cm. Năm nay, chỉ riêng việc bán lá dong, tôi thu về hơn 100 triệu đồng”.

Lá dong Đông Kết không giống những loại lá khác. Cây lá dong ở đây được trồng trên đất phù sa cổ, màu mỡ, thuộc vùng bãi bồi sông Hồng. Đất tơi xốp, khí hậu ôn hòa giúp lá to đẹp, màu xanh mướt như ngọc, cuống lá đồng màu với gân lá, mặt dưới xanh non óng ánh. Đây chính là yếu tố khiến lá dong Đông Kết trở thành thương hiệu, không chỉ phục vụ trong nước mà còn “bay” đến những thị trường quốc tế.

Ông Nguyễn Bá Hiền nói thu hơn 100 triệu đồng cho mùa lá dong năm nay. (Ảnh: Đức Huy).

Cô Hạnh, một người dân khác, kể rằng: “Người mua rất chuộng lá dong của làng vì lá dai, cuống lá xanh sáng, không xanh sẫm như lá rừng. Đặc biệt, khi gói bánh, lá dong Đông Kết sẽ giúp bánh có màu xanh đẹp tự nhiên và thơm hơn”.

Chia sẻ trên báo Hưng Yên, ông Đỗ Nguyễn Cường, Phó Chủ tịch UBND xã Đông Kết: “Toàn xã hiện có khoảng 140 mẫu lá dong, tập trung chủ yếu ở thôn Lạc Thủy. Chúng tôi đang phối hợp với các doanh nghiệp để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, đồng thời tập huấn cho bà con về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây lá dong. Lá dong Đông Kết đã trở thành một thương hiệu, mang lại nguồn thu nhập ổn định, góp phần nâng cao đời sống người dân”.

Lá dong trong đời sống hiện đại

Ở Đông Kết, người dân phân lá dong thành nhiều loại. Loại một – những chiếc lá to, dày, màu xanh mướt – được xuất khẩu ra nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Mỹ và Cộng hòa Séc. Loại hai sẽ phục vụ cho thị trường trong nước.

Lá dong xuất khẩu sẽ được thu hoạch sớm ngay từ đầu tháng 11 Âm lịch. Các đối tác nước ngoài yêu cầu khắt khe với lá dong xuất khẩu, từ quy trình sản xuất sạch, đến trồng, thu hoạch phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, không dùng hoá chất độc hại. Đặc biệt, các lá dong phải được cắt đều, bó gọn, vận chuyển bằng container lạnh để giữ được độ tươi.

Lá dong được tiêu thụ mạnh tại các thị trường có đông cộng đồng người Việt như Nhật Bản, Mỹ, Cộng hoà Séc. Năm nay, một số đơn vị xuất khẩu đã hợp tác với các sàn thương mại điện tử quốc tế như Amazon để tiếp cận thêm nhiều khách hàng hơn.

La dong Hưng Yên được xuất khẩu sang cả châu Âu. (Ảnh: Đức Huy). 

Năm 2022, trao đổi trên tờ Nông thôn Ngày nay, CTCP Ameii Việt Nam cho biết những năm gần đây họ thường xuyên xuất khẩu các loại lá như lá dong, lá chuối đi nước ngoài. 

Theo doanh nghiệp này, lá dong, lá chuối được thu mua tại các trang trại lớn rồi đem về sơ chế, loại bỏ lá rách, không đủ kích cỡ, đưa qua hệ thống ngâm sục khí ozone để khử khuẩn, làm giảm nhiệt độ bề mặt lá, giúp lá không bị héo úa, vàng ủng khi bảo quản chờ đưa vào sản xuất. 

Lá được cuộn lại, đóng gói quy cách 0,5 - 1kg. Sau đó sản phẩm được hút chân không, cấp đông ở -18 độ C trước khi đưa đi xuất khẩu.

Doanh nghiệp chia sẻ, các loại lá này ở Việt Nam rất phổ biến, nơi nào cũng trồng được nên có giá bán rất rẻ. Thậm chí nếu không phải vào ngày rằm, lễ hội hay dịp Tết Nguyên đán, những loại lá này thường bỏ đi. Tuy nhiên, ở Nhật Bản, Hàn Quốc, hay châu Âu, những loại lá này rất hiếm, có giá bán đắt đỏ.

Tại thị trường trong nước, nếu như trước đây, lá dong chỉ được dùng để gói bánh chưng, bánh tét thì hiện nay, sản phẩm này đã trở thành nguyên liệu đa năng trong đời sống.

Trong đó nổi lên là xu hướng sử dụng thay túi nilon để gói rau, gói thực phẩm tươi, đặc biệt tại các cửa hàng bán đồ organic. Một số nhà hàng đã sử dụng lá dong để trang trí các món ăn truyền thống hoặc gói thực phẩm như xôi, bánh nếp. Lá dong không chỉ giữ được mùi vị thơm ngon mà còn giúp sản phẩm trông bắt mắt hơn.

Mang Tết về trên khắp nẻo quê hương

Cứ mỗi dịp cuối năm, các bó lá dong lại theo những con thuyền, chuyến hàng ra những nhà giàn, hải đảo xa xôi của Tổ Quốc, mang những gửi gắm tâm tình, không khí xuân của người dân đất liền với các chiến sĩ.

Đọc những chia sẻ của chiến sĩ ngoài đảo về những chiếc lá dong mới thấy độ quý và trân trọng của những người lính biển dành cho thức quà quê ấy. Bài đăng trên Uỷ ban đoàn kết Công Giáo cho biết sau nhiều ngày tháng lênh đênh trên biển, những bó lá dong đã chuyển màu hoặc héo úa. Lính đảo phải dùng cách lá bàng vuông lót bên trong và lá dong bọc bên ngoài để gói bánh. Lúc này, lá dong không còn chỉ là những chiếc lá thuần tuý của vùng Đông Kết hay Cát Tràng nữa mà nó đã hoá thân trở thành những hồn cốt của dân tộc. 

Một cánh đồng lá dong tại Đông Kết. (Ảnh: Đức Huy).

Những ngày này, về Đông Kết, khi nhìn những bó lá dong xanh mướt được chọn lựa cẩn thận, ta thấy trong đó không chỉ có sự lao động miệt mài mà còn có tình yêu quê hương, lòng tự hào của người dân nơi đây. Lá dong không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp, mà còn là biểu tượng văn hóa, là kết nối giữa hiện tại và truyền thống.

Hình ảnh người dân Đông Kết, từ cụ già tóc bạc đến những đứa trẻ nhỏ, cùng nhau thu hái, bó lá đã tạo nên không khí Tết ấm áp, rộn ràng. Những chuyến xe chở lá dong lăn bánh mang theo hơi thở của mùa xuân, đưa sắc xanh và hương vị Tết quê hương đến mọi miền.

Trong nhịp sống hiện đại, khi nhiều giá trị truyền thống dần mai một, lá dong Đông Kết vẫn giữ được vị thế của mình – không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp mà còn là biểu tượng văn hóa. Những người dân nơi đây luôn hy vọng rằng, màu xanh của lá dong sẽ mãi xanh, như sức sống bền bỉ của làng quê, để mỗi khi xuân về, Tết đến, sắc xanh ấy lại làm đẹp thêm cho cuộc sống, thêm đậm đà hương vị Tết Việt.

Đức Huy