Cẩn trọng khi lãi suất huy động bị dìm quá thấp

Tuần vừa rồi có thông tin “Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện ngay việc thanh tra, kiểm tra các ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng lãi suất huy động trong thời gian qua”.
Công điện được đưa ra sau khi “có một số ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng lãi suất huy động, là yếu tố tác động làm tăng lãi suất cho vay”. Điều này đang đi ngược với chỉ đạo chung và mong muốn của nhà điều hành.
Trong bối cảnh nền kinh tế cần nhiều sự hỗ trợ thì sự quyết liệt và đồng bộ của Chính Phủ trong việc gây sức ép để các ngân hàng thương mại giảm lãi suất đầu vào là điều đáng ghi nhận. Hành động này một phần cũng giúp căn chỉnh lại tăng trưởng huy động giữa các nhóm ngân hàng và tránh những cuộc đua lãi suất do các ngân hàng tư nhân nhỏ khởi xướng.
Tuy nhiên bản thân các ngân hàng cũng đang có “cái khó” của mình. Chính vì thể để những quyết sách có hiệu quả và tránh những tác động tiêu cực trong tương lai thì sự thấu hiểu và cân bằng cũng là điều cơ quan quản lý nên cân nhắc. Đặc biệt trong bối cảnh mà ngân hàng đang là kênh dẫn vốn gần như là duy nhất của nền kinh tế.
Việc thúc ép các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động diễn ra trong bối cảnh "lạm phát kỳ vọng" gia tăng, chênh lệch lãi suất VND trong nước và USD quốc tế tính cả rủi ro tỷ giá vẫn là âm, cùng với đó là chênh lệch tín dụng huy động leo cao như hiện nay sẽ có nguy cơ càng làm tốc độ tăng trưởng cung tiền khó cải thiện.
Lãi suất thấp nhưng dòng tiền không luân chuyển thì doanh nghiệp cũng chưa thể thoát khó. Tại sao lại có hiện tượng như vậy?
Lý do là trong ngắn và trung hạn tăng trưởng của tiền gửi sẽ chi phối trực tiếp tăng trưởng cung tiền. Nếu lãi suất huy động bị dìm quá thấp thì sẽ gây ra ba hệ lụy.
Thứ nhất, trong bối cảnh lạm phát cảm nhận kỳ vọng tăng cao, nếu lãi suất huy động VND bị ghìm ở mức quá thấp, việc gửi tiền bằng VND sẽ không còn đủ hấp dẫn để bù lạm phát. Điều này kích thích người dân đổ tiền vào các kênh tài sản có yếu tố quốc tế hơn, chẳng hạn như USD, vàng, tiền số, tiền gửi quốc tế, ....
Nếu lượng tiền này chu chuyển trong nước thì không sao, nhưng nếu nó được dịch chuyển ra nước ngoài thì sẽ kéo theo nhiều hệ lụy, điển hình như giảm sút số nhân tiền và suy giảm lượng tiền gửi trong nước. Cả hai yếu tố này đều là nhân tố chính quyết định tăng trưởng cung tiền.

Lãi suất huy động và lạm phát. (Nguồn: Wichart.vn).
Thứ hai, chênh lệch âm giữa lãi suất huy động VND trong nước và USD trên thị trường quốc tế là một vấn đề rất lớn mà chúng ta phải quan tâm. Nó gây áp lực vô cùng lớn lên sự dịch chuyển huy động và tín dụng trên cán cân tổng thể. Đây mới thực sự là vấn đề gây áp lực tỷ giá trong trung và dài hạn.
Chẳng hạn, khi lãi suất huy động VND thấp hơn lãi suất của USD + kỳ vọng mất giá VND/USD sẽ thì bạn sẽ chọn gửi tiền ở đâu? Tương tự như vậy thì nếu phải đi vay thì bạn sẽ vay ở đâu? Rõ ràng gửi tiền thì gửi ở quốc tế và vay tiền thì vay trong nước sẽ là lựa chọn tối ưu lúc này.
Trước năm 2022 mỗi quý chúng ta có được trung bình 1,5 - 2 tỷ USD chảy vào từ huy động tiền gửi và tín dụng quốc tế, nhưng giờ thì mỗi quý bị chảy ra 3 - 4 tỷ USD. Đó là chưa kể đến những luồng vốn "sai số" không kê khai được trung bình khoảng 5 - 6 tỷ USD mỗi quý. Thực sự cứ thế này thì dự trữ ngoại hối sẽ ngày càng áp lực.
Hệ quả gặp phải không chỉ mỗi tỷ giá áp lực, mà càng giảm lãi suất thì càng nhiều USD bị rút ra khỏi Việt Nam. Chúng ta lại không thể buông tỷ giá do nền kinh tế độ mở cao nên lại tiếp tục bán USD để giải quyết áp lực tỷ giá.
Càng bán USD can thiệp thì càng hút VND khỏi nền kinh tế, cung tiền trong nền kinh tế lại càng chịu áp lực, hiệu ứng giàu có lại càng suy giảm, áp lực tăng trưởng bên trong càng yếu, lại càng phải đi tìm nguồn lực tăng trưởng từ bên ngoài như vốn FII và FDI. Như vậy rõ ràng, để giảm được lãi suất thì chúng ta lại phải đánh đổi bằng cung tiền.
Thứ ba là chênh lệch giữa tín dụng và huy động hiện đang ở mức kỷ lục. Mới đây nhất Tại hội thảo "Sử dụng vốn hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế" ngày 28/2, chính Phó Thống đốc Đào Minh Tú cũng chia sẻ rằng “hiện ngành ngân hàng huy động được 9 đồng nhưng đang cho vay 10 đồng rồi, phải sử dụng cả vốn tự có và vốn tái cấp từ Ngân hàng Nhà nước”.
Tính đến cuối năm 2024, hệ thống bank đang cho vay 15,3 triệu tỷ đồng nhưng huy động chỉ khoảng 14,8 triệu tỷ đồng. Nếu bắt ép giảm cả lãi suất huy động và cho vay ngay lúc này, song song với đó thúc tăng trưởng tín dụng thì sẽ làm khoảng cách này càng tăng cao, sớm muộn gì cũng để lại những hệ lụy lớn cho cả hệ thống và nền kinh tế.
Lại một lần nữa chúng ta thấy rằng việc ép giảm lãi suất đầu vào đang vô tình gây suy giảm tăng trưởng huy động vốn, từ đó gián tiếp gây khó khăn cho việc tăng trưởng cung tiền.

Chênh lệch tín dụng và huy động theo giá trị và tăng trưởng cùng kỳ. (Nguồn: Wichart.vn).
Theo tôi thì chúng ta cần cái nhìn tổng quan rằng kinh tế và doanh nghiệp bây giờ có cần lãi suất quá thấp không, hay họ cần tiền nhiều hơn, vòng xoay kinh tế mạnh hơn. Nếu lãi suất thấp mà vay về mở rộng sản xuất nhưng không bán được hàng thì doanh nghiệp cũng vấn khó khăn. Đó là chưa kể đến lãi suất thấp một cách phi thị trường cũng sẽ làm lệch lạc không ít con số trên bảng cân đối của ngân hàng và ảnh hưởng đến cả tỷ giá, lạm phát.
Phương án cân đối lúc này là một mặt gây sức ép giảm lãi suất cho vay, không ép giảm lãi suất huy động, nghiêm cấm tăng chạy đua lãi suất huy động. Một nền lãi suất huy động như hiện tại hoặc chấp nhận tăng nhẹ là điều cần thiết để cân bằng tỷ giá và kích thích tăng trưởng huy động vốn.
Hành động này sẽ ép các ngân hàng giảm biên lãi thuần (NIM) để hỗ trợ nền kinh tế, về phía họ muốn tăng trưởng được lợi nhuận sẽ phải chủ động tăng cho vay. Nhà điều hành có thể căn chỉnh một số tỷ lệ để giảm bớt áp lực lên hệ thống ngân hàng trong giai đoạn này.
Mặt còn lại tiếp tục đẩy mạnh đầu tư công, chấp nhận tỷ giá biến động trong một không gian rộng hơn, chấp nhận đẩy mạnh huy động vốn FDI. Điều này giúp tăng trưởng cung tiền M0 từ đó thúc đẩy tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2.
Hiện nay, chúng ta vẫn đang trong một bối cảnh đặc biệt, đó là phải đánh đổi giữa lãi suất và cung tiền, hay giá và lượng của của tiền.
Tuy nhiên cái khó là nền kinh tế và doanh nghiệp hiện nay cần được khơi thông từ cả hai mặt trận này. Vậy nên sự cân đo đong đếm giữa bên giá - bên lượng vẫn đang là điều đau đầu với nhà quản lý trong những năm qua và cả bây giờ.
Sức ép sẽ lớn hơn khi cả nước đang quyết tâm với một hành trình đột phá mới.
Ông Trần Ngọc Báu, Sáng lập & Tổng Giám đốc WiGroup