Toàn cảnh ngân hàng quý III: Chất lượng tài sản giảm và phân hoá, P/B tiệm cận vùng định giá trung bình 10 năm
Báo cáo phân tích WiGroup được công bố tại "Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2024: Theo dấu Dòng tiền" cho thấy thực tế hoạt động kinh doanh của các ngân hàng tiếp tục kém đi trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng thấp khi nguồn cung cho vay thắt chặt đối với lĩnh vực bất động sản và cầu tín dụng thấp ở nhóm doanh nghiệp xuất khấu do thiếu đơn hàng.
Tín dụng tăng trưởng chậm
Trong quý III/2023, tín dụng của của toàn ngành ngân hàng tăng 2,4% so với quý trước. Sự tăng trưởng yếu xuất phát từ nguyên nhân như nhu cầu giảm tại hầu hết lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản,.. thị trường nhập khẩu của Việt Nam vẫn đang suy yếu.
Đặc biệt, thị trường bất động sản (BĐS), chiếm hơn 21% tổng dư nợ nền kinh tế, đạt mức tăng trưởng thấp, tình trạng này có thể vẫn tiếp tục kéo dài cho đến hết năm 2023-2024 đến khi thị trường BĐS có tín hiệu phục hồi rõ nét.
Lợi nhuận sụt giảm và phân hoá
Trong quý III, lợi nhuận sau thuế của toàn ngành ngân hàng đạt hơn 47.892 tỷ đồng, giảm 1,2% so với cùng kỳ. Tốc độ sụt giảm lợi nhuận đã hạ nhiệt so với quý trước đó. Trong đó, nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước (Big4) là nhóm duy nhất ghi nhận mức tăng trưởng dương (tăng 7,2% so với cùng kỳ).
Lợi nhuận của nhóm NHTM còn lại giảm 5,2%, những ngân hàng có mức giảm mạnh nhất như PG Bank, VietABank, VietBank, ABBank.
Phân tách thu nhập ngành ngân hàng trong quý III/2023 cho thấy thu nhập ở hầu hết mảng hoạt động đều sụt giảm. Trong đó, mảng cho vay cốt lõi tiếp tục sụt giảm kể mức đỉnh quý IV/2022 và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước nhưng bù lại lãi từ chứng khoán đạt mức tăng trưởng ấn tượng, tăng hơn 20%.
Ngoài ra, chi phí dự phòng và chi phí hoạt động đã giảm gần 6,42% so với cùng quý đã góp phần kìm hãm đà giảm lợi nhuận sau thuế toàn ngành.
NIM toàn ngành ngân hàng sẽ phục hồi trong quý IV
Bóc tách thu nhập lãi thuần cho thấy NIM toàn ngành tiếp tục sụt giảm, từ mức 3,31% trong quý II/2023 xuống còn 3,1% trong quý III/2023 do chi phí huy động vốn (COF) tăng nhanh hơn tốc độ tăng của lợi tức trên tài sản sinh lãi (YEA).
Mặc dù, dù lãi suất huy động đã giảm từ quý I/2023 nhưng do độ trễ của kỳ hạn nên chưa thể phản ánh ngay vào chi phí vốn (COF) của ngân hàng.
Chất lượng tài sản suy giảm và có sự phân hoá mạnh
Ảnh hưởng bởi sự gia tăng của nợ nhóm 2 trong quý trước đã phản ánh lên tỷ lệ nợ xấu trong quý này.Tỷ lệ nợ xấu nội bảng (NPL) của toàn ngành đã tăng mạnh trong quý III/2023 dừng ở mức 2,2%. Tuy nhiên, mức tăng này không quá lo ngại khi tỷ lệ nợ xấu vẫn nằm trong vùng an toàn
Đáng chú ý, tỷ lệ dự phòng rủi ro nợ xấu (LLR) đã mỏng đi trong quý này, chỉ đạt 93,8%, cho thấy các ngân hàng đang trích lập dự phòng ít hơn. Điều này có thể hỗ trợ lợi nhuận trong quý III nhưng có thể gây áp lực suy giảm lợi nhuận ở các quý sau.
Tuy nhiên, nhờ chính sách điều hành hợp lý của Chính phủ thông qua ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN, theo đó các ngân hàng có quyền lựa chọn cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong phạm vi tối đa 12 tháng và giữ nguyên nhóm nợ trong khi các khoản dự phòng có thể trích dần trong 2 năm.
Nhờ vậy, áp lực lên báo cáo tài chính của các ngân hàng được kiểm soát phần nào, do rủi ro tỷ lệ nợ xấu gia tăng sẽ được chuyển sang nửa cuối năm 2024.
Báo cáo cũng lưu ý nhà đầu tư cần theo dõi bao gồm các hoạt động bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh khác hoặc các giao dịch phái sinh, cam kết khác ngoại bảng (off-balance sheet items). Tính đến quý III/2023, nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của một số ngân hàng ở mức cao.
Mức định giá P/B ngành tiệm cận vùng định giá trung bình 10 năm
Theo WiGroup, nhóm NHTM Nhà nước và các NHTM tư nhân đã đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận giảm lần lượt 5% và 28% so với cùng kỳ và thực tế tỷ lệ hoàn thành lợi nhuận lần lượt đạt 78% và 68% trong 9 tháng đầu năm 2023.
Trong trường hợp kết quả kinh doanh của các ngân hàng bám sát mục tiêu, lợi nhuận toàn ngành có thể giảm đến 10% cả năm 2023.
Về mặt định giá, P/B của ngành ngân hàng tính đến thời điểm ngày 26/10/2023 ở mức 1,47 lần, tiệm cận với vùng trung bình 10 năm. "Chúng tôi nhận thấy mức định giá tương đối phù hợp trong bối cảnh tín dụng tăng chậm và rủi ro nợ xấu tiềm ẩn tại một số ngân hàng", báo cáo viết.