Tín dụng ngân hàng bị hạn chế, giải bài toán vốn trung dài hạn qua kênh nào?
Ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển Châu Á. (Ảnh: Tài chính - Đầu tư).
Tại Hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững” sáng 15/12, các chuyên gia đều đồng quan điểm cho rằng nguồn vốn trung dài hạn là yếu tố cực kỳ quan trọng trong giai đoạn phát triển tới của nền kinh tế.
Ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), cho biết theo báo cáo từ các văn kiện đại hội Đảng mới đây, các cơ quan đã xác định nhu cầu vốn của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm tới vào khoảng từ 300 - 420 tỷ đồng, đến từ đầu tư công và đầu tư của toàn xã hội.
Trong đó, mục tiêu là trong 5 năm tới tỷ lệ đầu tư công sẽ đạt ít nhất là 8% GDP/năm. Điều này tương đương cần thêm khoảng 50 đến 70 tỷ USD trong giai đoạn 5 năm tới.
Còn đầu tư toàn xã hội, hiện đang ở ngưỡng khoảng 32% GDP, thì mục tiêu đặt ra là lên khoảng 40% GDP/năm, tương đương cần thêm khoảng 250 đến 350 tỷ USD tăng thêm so với giai đoạn vừa rồi.
Nguồn: ADB.
Nhìn vào các kênh huy động vốn trên thị trường hiện nay gồm: tín dụng ngân hàng, trái phiếu Chính phủ, thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán có thể thấy dư địa ở kênh tín dụng bị hạn chế khi tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam ở mức tương đối cao.
Các ngân hàng muốn tiếp tục tăng trưởng tín dụng, đặc biệt tín dụng trung dài hạn cần buộc phải cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR), tăng vốn. Hiện nay, so với khu vực thì mức độ đủ vốn của ngân hàng Việt Nam là thấp nhất so với khu vực (Indonesia, Campuchia, Bruney, Thái Lan, Malaysia, Philippines).
Nguồn: ADB.
Phân tích sâu hơn về vấn đề này, các chuyên gia kỳ vọng cao vào sự phát triển của thị trường trái phiếu gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp.
Theo bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính), nhu cầu vốn để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là vốn trung dài hạn trong giai đoạn 5 năm tới 2026 - 2030 tăng gấp đôi so với giai đoạn trước (2021- 2025). Điều này tạo áp lực lên kênh huy động trái phiếu chính phủ và kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
"Đặc điểm lớn nhất trên thị trường vốn và thị trường trái phiếu Việt Nam có ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn là cơ sở nhà đầu tư rất mỏng, thiếu vắng nhà đầu tư có tổ chức, có tiềm lực tài chính mạnh, có nguồn vốn dài hạn để tham gia đầu tư.", bà Tâm chia sẻ.
Bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính). (Ảnh: Tài chính - Đầu tư).
Chuyên gia Nguyễn Bá Hùng cho rằng Việt Nam có lợi thế ở nguồn huy động vốn Chính phủ khi dư nợ trái phiếu Chính phủ so với GDP chỉ xấp xỉ 20% GDP, là ở ngưỡng rất rất thấp so với các nước trong khu vực. Nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trái phiếu Chính phủ Việt Nam gần như bằng 0.
Cùng với đó, nợ nước ngoài của Việt Nam đang có xu hướng giảm nhanh trong quá trình khoảng 5 năm vừa qua, điều này cho thấy tài chính công của chúng ta là ở ngưỡng an toàn cao và đồng nghĩa với việc đây là một trong những kênh có nhiều dư địa để tăng huy động.
Về trái phiếu doanh nghiệp, ông Hùng cho hay dư nợ trái phiếu doanh nghiệp hiện nay chỉ vào khoảng 10% GDP, thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia, cho thấy vẫn còn không gian rất lớn để phát triển.
"Nếu doanh nghiệp có thể tiếp cận thị trường trái phiếu để huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, thì áp lực lên hệ thống ngân hàng sẽ được giảm bớt. Khi đó, ngân hàng có thể tập trung nhiều hơn vào các khoản tín dụng ngắn và trung hạn, phù hợp hơn với đặc thù hoạt động của hệ thống ngân hàng", ông Hùng chia sẻ.
Theo chuyên gia, một trong những hướng đi cần thiết là cải cách thị trường trái phiếu Chính phủ theo hướng đa dạng hóa nhóm nhà đầu tư. Đặc biệt, cần tạo điều kiện để thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ bằng đồng nội tệ.
"Khi các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trái phiếu Chính phủ bằng tiền nội tệ, điều này sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho Chính phủ trong quản lý rủi ro và ổn định tài chính vĩ mô", ông Hùng chia sẻ.