Hay như câu chuyện nâng hạng thị trường chứng khoán sẽ có hàng tỷ USD đổ vào thị trường Việt Nam, giúp thị trường chứng khoán phát huy đúng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp.
Song, sức khỏe của các doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng nặng nề sau đại dịch và hệ quả của quá trình thâm dụng vốn kéo dài, cùng với những lo ngại các doanh nghiệp Việt đang “mất hút” trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Vậy, làm sao để doanh nghiệp nội tận dụng được cơ hội từ sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư này? Làm sao để các doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu? Để có thêm góc nhìn về thị trường, và hiểu hơn nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài, chúng tôi đã liên hệ với bà Trần Thị Thúy Ngọc, Phó Tổng Giám đốc thường trực, Deloitte Việt Nam.
PV: Là doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn, kiểm toán tại Việt Nam, bà đánh giá như thế nào về mức độ minh bạch thông tin báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết giai đoạn 5 năm vừa qua?
Bà Trần Thị Thúy Ngọc: Chất lượng báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) trong những năm gần đây đã có nhiều bước tiến, đáp ứng cơ bản và tương đối đầy đủ yêu cầu của nhà đầu tư.
Nhiều doanh nghiệp cung cấp đa dạng các loại thông tin liên quan tới báo cáo tài chính, công tác quản trị, các hoạt động bất thường quan trọng có ảnh hưởng tới nhà đầu tư…
Chất lượng thông tin cũng được cải thiện trên nhiều phương diện như mức độ trung thực và khách quan, tính đầy đủ, kịp thời, có thể đối chiếu, so sánh và khả năng kiểm chứng được.
Đặc biệt, trong hai năm gần đây, sau khi đại dịch COVID-19 dần được kiểm soát, các doanh nghiệp trên thế giới quan tâm nhiều hơn đến câu chuyện quản trị công ty gắn với phát triển bền vững và biến đổi khí hậu. Theo đó, tại Việt Nam, các cơ quan quản lý và một số doanh nghiệp cũng đã nhanh chóng bắt kịp xu thế này.
Đơn cử như cuộc bình chọn DNNY lần thứ 16 năm nay mà Deloitte là một trong những đối tác đồng hành và hỗ trợ kỹ thuật, Ban Tổ chức đã cập nhật bộ tiêu chí đánh giá quản trị công ty theo bộ nguyên tắc quản trị công ty của G20/OECD năm 2023, bổ sung khía cạnh phát triển bền vững và bền bỉ (Sustainability and Resilience). Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng bước đầu tư vào báo cáo phát triển bền vững với số lượng phát hành tăng dần qua các năm, thay vì chỉ tập trung vào báo cáo tài chính.
Việc cập nhật những thông lệ quốc tế mới nhất, đi theo đúng xu hướng của thế giới và chứng minh được những nỗ lực bằng các kết quả đo lường được thông qua báo cáo sẽ giúp các doanh nghiệp Việt thu hút được nguồn vốn đầu tư chất lượng hơn.
Những thông lệ tốt sẽ được lan tỏa tại những sự kiện tương tự như cuộc bình chọn DNNY nhờ sự chung tay của cơ quan quản lý, các đơn vị tư vấn độc lập, các quỹ và tổ chức quốc tế uy tín, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng xanh hơn và bền vững hơn.
Tuy vậy, việc công bố báo cáo của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều điểm để hoàn thiện như việc phát hành báo cáo bằng tiếng Anh còn hạn chế (hiện mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp có vốn hóa lớn) hay việc lập và công bố báo cáo tài chính theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế còn khá khiêm tốn…
Đối với báo cáo phát triển bền vững, theo kết quả tổng kết của cuộc bình chọn DNNY lần thứ 16, điểm số mục ESG của các doanh nghiệp chưa cao. Như vậy, có thể thấy các doanh nghiệp chưa có sự quan tâm hoặc chưa sẵn sàng để phát triển theo cả ba trụ cột ESG.
Các doanh nghiệp cần nhìn nhận rõ lợi ích về lâu dài của việc thực hiện báo cáo tài chính, báo cáo phát triển bền vững minh bạch, đầy đủ và kịp thời, từ đó có sự chú trọng và đầu tư thích đáng.
PV: Lộ trình áp dụng IFRS đang đến gần, nhưng gần đây chưa có nhiều doanh nghiệp tự nguyện áp dụng chuẩn mực này trong BCTC, Bà đánh giá như thế nào về điều này?
Bà Trần Thị Thúy Ngọc: Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt Đề án áp dụng IFRS tại Việt Nam, giai đoạn 2022-2025 là giai đoạn áp dụng tự nguyện. Sau gần một nửa chặng đường áp dụng tự nguyện IFRS, khảo sát của Deloitte cho thấy mức độ sẵn sàng áp dụng IFRS của các doanh nghiệp tại Việt Nam có sự phân hóa rõ rệt.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là nhóm doanh nghiệp tiên phong trong việc chuyển đổi từ VAS sang IFRS, cùng sự hậu thuẫn từ công ty mẹ và lợi thế sẵn có về quy trình và hệ thống, với trung bình 52% các doanh nghiệp này đã và đang áp dụng IFRS.
DNNY là nhóm doanh nghiệp đứng thứ 2 trong việc sẵn sàng chuyển đổi áp dụng IFRS. 49% doanh nghiệp trong nhóm này đã hoàn thành hoặc có dự định chuyển đổi IFRS để phản ánh tình hình tài chính phù hợp hơn cho mục đích quản trị, cũng như phục vụ cho việc gọi vốn và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư quốc tế.
Mặc dù có sự đồng thuận cao của cộng đồng doanh nghiệp và quyết tâm hướng tới chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế, song phải thừa nhận rằng, vẫn còn thiếu nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nhằm đảm bảo việc áp dụng thành công IFRS tại Việt Nam. Có thể kể đến các ràng buộc hữu cơ khó tháo gỡ về sự khác biệt giữa chính sách kế toán, thuế, cơ chế tài chính, hay các yếu tố về chất lượng nhân lực, quản trị công ty, công nghệ và quy trình.
Ngoài ra cũng cần xét đến mức độ trưởng thành và độ sâu của thị trường liên quan tới giá trị hợp lý, cơ sở thông tin tham chiếu cho các chuẩn mực IFRS phức tạp như IFRS 9 - công cụ tài chính, IFRS 16 - hợp đồng thuê, hay sắp tới là IFRS 17 - bảo hiểm.
Từ thực tế này, để hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi thành công, có thể cân nhắc kéo dài thêm thời gian áp dụng tự nguyện IFRS để các doanh nghiệp có thể hoàn thiện công tác chuẩn bị. Thời gian áp dụng tự nguyện có thể kéo dài, nhưng đây sẽ không là lý do để trì hoãn khi thúc đẩy áp dụng IFRS tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng sửa đổi các thông tư về chế độ kế toán Việt Nam theo hướng sát hơn với thông lệ quốc tế.
Về phía cơ quan quản lý, cần sửa đổi Luật Kế toán, xây dựng bộ chuẩn mực kế toán mới (VFRS), theo kinh nghiệm của các nước trên cơ sở kế thừa IFRS và có tinh chỉnh cho phù hợp với đặc thù kinh tế và thị trường của Việt Nam; nghiên cứu và có lộ trình điều chỉnh đối với các cơ chế tài chính, cơ chế lương thưởng, xếp hạng doanh nghiệp… với mục tiêu trao quyền chủ động hơn cho doanh nghiệp và để tăng khả năng tương thích với phương pháp tiếp cận của quốc tế khi triển khai IFRS sau này.
Ngoài ra, cũng có thể xem xét xây dựng cơ chế khuyến khích cho các doanh áp dụng tự nguyện IFRS như công nhận giá trị sử dụng của báo cáo lập theo IFRS cho một số mục đích nhất định như nộp cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), hay sử dụng cho xếp hạng tín nhiệm tại ngân hàng; hay đối với doanh nghiệp nhà nước có thể đưa việc áp dụng IFRS vào tiêu chí đánh giá năng lực quản trị doanh nghiệp…
PV: Deloitte Việt Nam tập trung vào lĩnh vực tư vấn doanh nghiệp, Chị có thể cho biết mức độ quan tâm của NĐTNN đến Việt Nam như thế nào? Nhu cầu thông tin của khối này ra sao, các doanh nghiệp trong nước đã đáp ứng đủ chưa?
Bà Trần Thị Thúy Ngọc: Có thể nói Deloitte Việt Nam đồng hành cùng sự phát triển của các doanh nghiệp FDI ngay từ những ngày đầu đất nước mở cửa, đón nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam. Theo đó, Deloitte cũng mở rộng danh mục dịch vụ, để cung cấp cho doanh nghiệp những giải pháp tổng thể và hiệu quả từ dịch vụ kiểm toán và đảm bảo; tư vấn về chiến lược, tài chính và quản trị rủi ro; và các dịch vụ tư vấn thuế và pháp lý.
Trong hơn 30 năm qua, Việt Nam nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài bởi các lợi thế như ổn định chính trị, tiềm năng và dư địa tăng trưởng cao, thị trường rộng lớn với hơn 100 triệu dân. Việt Nam còn sở hữu vị trí địa chính trị chiến lược trong khu vực Đông Nam Á và quốc tế, cũng như hội nhập kinh tế sâu rộng thông qua tham gia đến 15 hiệp định tự do thương mại, trong đó có nhiều FTA quan trọng như EVFTA, RCEP, CPTPP…
Các nhà đầu tư nước ngoài thường có yêu cầu rất cao về các thông tin được công bố. Họ đề cao tính minh bạch, mức độ cập nhật, tích hợp của thông tin. Đặc biệt, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không chỉ xem xét những số liệu tài chính kế toán mà còn cân nhắc đến các thông tin phản ánh triết lý kinh doanh, hành trình tạo ra giá trị của doanh nghiệp, công tác quản trị gắn với ESG và báo cáo phát triển bền vững.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã nỗ lực đáp ứng nhu cầu công bố thông tin thông qua việc báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, báo cáo phát triển bền vững, đồng thời cải thiện công tác quản trị để bắt nhịp cùng những bước phát triển nhanh trên thế giới…
Tuy vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ cần nỗ lực hơn nữa, đặc biệt khi thị trường bổ sung thêm nhiều yêu cầu thông tin mới với các doanh nghiệp vào những năm gần đây về phát triển bền vững, cũng như chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS trong bối cảnh thuế sẽ không còn là ưu đãi thu hút nhà đầu tư nước ngoài khi Việt Nam bắt đầu áp dụng thuế Tối thiểu toàn cầu từ ngày 01/01/2024.
PV: Bà đánh giá như thế nào về triển vọng của nguồn vốn FDI tại Việt Nam trong vòng 3-5 năm tới? Đâu là điểm hấp dẫn và đâu là những hạn chế?
Bà Trần Thị Thúy Ngọc: Việt Nam có những lợi thế cạnh tranh lớn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài như vị trí địa lý thuận lợi; môi trường kinh tế, xã hội, chính trị ổn định; và là một trong những nền kinh tế năng động có tốc độ tăng trưởng cao.
Việc Chính phủ xác nhận tham gia thuế tối thiểu toàn cầu đã góp phần khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc hội nhập với xu thế toàn cầu; nâng cao vị thế của Việt Nam về tính minh bạch trong hệ thống chính sách trong mắt bạn bè quốc tế và diễn đàn các quốc gia.
Bên cạnh đó, nếu Chính phủ Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này để tiến hành cải tổ các chính sách ưu đãi phi thuế quan (như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chính sách chăm lo đời sống cho người lao động và các hình thức hỗ trợ khác) theo hướng phù hợp hơn với quốc tế như các chính sách ưu đãi tại các quốc gia trong khu vực.
Để có thể đưa ra những chính sách phù hợp, giúp dòng vốn FDI không đổi chiều, Chính phủ đã và đang hết sức tích cực trong việc nghiên cứu xây dựng Dự thảo Nghị định trong năm 2024 về việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư từ nguồn thu thuế tối thiểu toàn cầu và các nguồn hợp pháp khác.
Theo đó, Chính phủ sẽ tiếp tục xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đối với một số lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư.
Cũng trong năm 2023, các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao các nước, gần đây nhất là chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đều thành công tốt đẹp. Theo đó, quan hệ đối tác cũng được nâng tầm, thúc đẩy ngoại giao kinh tế, hỗ trợ thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam.
Do vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để kỳ vọng tích cực về dòng vốn FDI chất lượng, đa dạng và có trách nhiệm chảy vào Việt Nam trong thời gian tới, tập trung vào những lĩnh vực chiến lược đang được quan tâm như bán dẫn, công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng…
PV: Nếu có một nhận định ngắn về kinh tế Việt Nam năm 2024, Bà có thể chia sẻ một số cảm nhận và dự báo của mình về kinh tế Việt Nam trong năm 2024?
Bà Trần Thị Thúy Ngọc: Các tổ chức quốc tế đánh giá tương đối cao triển vọng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024, với tỷ lệ tăng trưởng GDP cao hơn nhiều so với trung bình của thế giới. Cụ thể, theo dự báo của IMF (tháng 10/2023), năm 2024 tăng trưởng bình quân kinh tế toàn cầu sẽ đạt khoảng 2,9%, trong đó Việt Nam tăng trưởng khoảng 5,8%, tức cao gấp đôi mức trung bình thế giới và thuộc nhóm 20 nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất thế giới năm 2024.
Hay đầu tháng 12/2023, Tổ chức Xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+, triển vọng “Ổn định”. Theo các tổ chức tài chính này, các yếu tố nền tảng trong trung hạn khả quan sẽ là bệ đỡ cho tăng trưởng bền vững và mở ra triển vọng kinh doanh tích cực cho công đồng doanh nghiệp.
Có thể nói, mặc dù còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức từ bối cảnh quốc tế như xung đột địa chính trị phức tạp, nguy cơ đổ vỡ của một số ngân hàng và tập đoàn kinh tế lớn, cũng như diễn biến khó lường của giá nguyên vật liệu và lạm phát; song đối với Việt Nam, với sức mạnh nội lực của mình và khả năng tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế, năm 2024 sẽ là một năm đầy hứa hẹn với những động lực tăng trưởng tương đối rõ ràng. Cụ thể:
Thứ nhất, đó là tính cộng hưởng từ sự hồi phục chung của sức cầu thế giới khi mà FED đã lên kế hoạch hạ dần lãi suất chính sách trong năm 2024, giúp mở ra thời kỳ hướng tới nới lỏng tiền tệ trên phạm vi toàn cầu.
Thứ hai, với mức lãi suất đồng Đô la Mỹ thấp hơn, sức ép tỷ giá VND/USD bớt căng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ có nhiều không gian hơn để cùng hệ thống ngân hàng thương mại thúc đẩy tín dụng ra nền kinh tế và tiếp tục hạ thấp mặt bằng lãi suất cho vay khi điều kiện cho phép.
Thứ ba, đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh và tạo hiệu ứng lan tỏa tới các ngành nghề khác của nền kinh tế trong nước.
Thứ tư, thị trường bất động sản cũng kỳ vọng sẽ có sự khởi sắc hơn sau một quá trình tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhất là về pháp lý của các dự án rất kịp thời từ phía Chính phủ, vấn đề còn lại là giá hi vọng cả hai bên cung cầu sẽ có sự điều chỉnh kỳ vọng của mình để sớm tìm được tiếng nói chung.
Cuối cùng, và quan trọng nhất, với trí tuệ và bản lĩnh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khi đã được tôi rèn qua những giai đoạn khó khăn nhất trong đại dịch COVID-19 cũng như những biến động trên thị trường tài chính trong thời gian qua, khi thời cơ đến và thị trường được mở ra, chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng trong năm 2024, tạo ra bước đà cho giai đoạn tăng trưởng nhanh và bền vững hơn trong dài hạn.
PV: Xin cám ơn bà!