Thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản hiện đang trồi sụt theo các dự báo ngắn hạn, tạo điều kiện để tâm lý "bầy đàn" dẫn dắt, từ đó phản ứng ngược lên chính sách. Đã đến lúc cần từ bỏ tư duy ngắn hạn, chạy theo những biến động trước mắt, đánh mất phương hướng trung và dài hạn.
Từ khi COVID-19 bùng phát đến nay, phần lớn các chính sách của Việt Nam đưa ra đều là ngắn hạn, tập trung ứng phó ngay lập tức với những tác động của dịch bệnh đến người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Điều này hoàn toán đúng và phù hợp với triết lý của nhà kinh tế học nổi tiếng John Maynard Keynes là “Về dài hạn, tất cả đều chết” (In the long run we are all dead). Câu này muốn nói rằng khi nền kinh tế gặp khủng hoảng thì đừng nói đến cải cách dài hạn làm gì, hãy tập trung vào những biện pháp cấp bách để ứng phó khó khăn.
Những năm gần đây, khủng hoảng diễn ra thường xuyên hơn. Khi kinh tế thế giới vẫn đang chao đảo vì dịch COVID-19 thì xung đột Nga - Ukraine lại bồi thêm một cú sốc lớn vào sự phục hồi vốn đã rất yếu ớt. Ứng phó chính sách lại một lần nữa phải ưu tiên cho các biện pháp ngắn hạn tập nhằm phục hồi chuỗi cung ứng đứt gãy, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và ứng phó với lạm phát tăng cao.
Gần đây nhất là chiến sự giữa Israel và Hamas ở Trung Đông với nguy cơ lan rộng sang toàn bộ khu vực, đẩy kinh tế thế giới một lần nữa rơi vào rủi ro lớn. Trong suốt ba năm, các nền kinh tế chỉ xoay quanh các biện pháp chính sách đối phó ngắn hạn. Dường như các ưu tiên trung và dài hạn bị gạt sang một bên.
Các phân tích chính sách tràn ngập dự báo về số liệu lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, con số tăng trưởng của Mỹ theo từng quý, từng tháng, thậm chí từng tuần. Và từ đó, đưa ra các dự báo rằng: Liệu sắp tới Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có tăng lãi suất tiếp hay không? Tăng bao nhiêu hay dừng lại?
Thị trường chứng khoán, tiền tệ, bất động sản trồi sụt theo các dự báo, tạo điều kiện để tâm lý "bầy đàn" dẫn dắt và từ đó lại gây ra phản ứng ngược với chính sách ngắn hạn. Vòng tròn luẩn quẩn này cứ tiếp diễn trong suốt ba năm qua cho đến tận bây giờ.
Câu chuyện tương tự xảy ra với Việt Nam. Nền kinh tế bước vào quý IV và câu chuyện chính sách cũng chỉ quanh quẩn xem liệu tăng trưởng quý này ra sao? Có giúp đạt mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 6,5% hay không? Liệu trong cuộc họp tháng tới Fed có tăng lãi suất không?
Hay mở rộng hơn là báo cáo kinh doanh của doanh nghiệp quý này ra sao? Chỉ số PMI tháng này trên hay dưới 50 điểm? Ngày mai tỷ giá VND/USD có vượt ngưỡng 24.600 hay không?...
Và rồi thị trường cổ phiếu, tỷ giá chao đảo xung quanh các số liệu, sự kiện và dự báo ngắn hạn theo quý, tháng, và thậm chí theo tuần, châm ngòi cho một tâm lý bất an.
Điều này dẫn tới việc hàng loạt quyết sách "đuổi theo" diễn biến của thị trường lại phải sửa đổi. Hôm nay ban hành nghị quyết này để thay đổi một nghị quyết khác hay ra thông tư mới để sửa đổi thông tư nọ. Các chính sách dường như mất sự định hướng trung và dài hạn, dẫn tới thiếu nhất quán. Đó là còn chưa kể việc thực hiện chậm trễ khiến câu chuyện hoàn toàn khác.
Đến nay, sau hơn một năm tăng lãi suất quyết liệt, Fed phần nào đã kiểm soát được lạm phát nhưng mục tiêu 2% vẫn còn rất xa vời. Đặc biệt khi nền kinh tế Mỹ vẫn ngày càng chứng tỏ sức phục hồi mạnh mẽ. Đây cũng là nền kinh tế lớn duy nhất được IMF nâng dự báo tăng trưởng trong năm 2023.
Liệu Fed có phải đẩy nền kinh tế Mỹ vào suy thoái để đạt mục tiêu 2% hay không hay đã đến lúc Fed chuyển đổi sang một khuôn khổ chính sách mới với tầm nhìn dài hơi hơn? Đó là chấp nhận một trạng thái mới của nền kinh tế Mỹ trong trung hạn, khi mà lạm phát sẽ dai dẳng ở 2,5% - 3% và tăng trưởng chậm lại trong những năm tới.
Đây vẫn là vấn đề còn nhiều tranh cãi nhưng có một thực tế rất rõ ràng: Đã đến lúc Fed và các nền kinh tế lớn khác cũng như Việt Nam phải từ bỏ tư duy chính sách ngắn hạn đầy bất định để xác lập lại sự bình tĩnh và hiệu quả trong phản ứng chính sách. Các quốc gia cần dần quay lại với các ưu tiên toàn diện trung và dài hạn, đặc biệt là cải cách thể chế, cải tổ cơ cấu.
Đã đến lúc phải chấp nhận tình trạng bất bình thường mới (new abnormal) của kinh tế thế giới. Theo đó, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại trong những năm tới, lạm phát dai dẳng và lãi suất duy trì ở mức cao hơn.
Chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng, rủi ro địa chính trị và địa kinh tế sẽ tiếp tục chia cắt nền kinh tế thế giới. Thiên tai, dịch bệnh dẫn tới những cú sốc sẽ trở nên thường xuyên hơn và khó lường hơn.
Trong bối cảnh “bất bình thường mới” này, nếu chính sách chỉ chạy theo phản ứng ngắn hạn sẽ mất định hướng, kém hiệu quả và không nhất quán. Do vậy, cần từ bỏ tư duy chính sách ngắn hạn, không chạy theo những biến động, con số và sự kiện trước mắt mà mất đi phương hướng trung và dài hạn.
Ngược lại, phải tiếp tục kiên định và đẩy nhanh hơn nữa những nỗ lực cải cách trong trung và dài hạn để tăng cường khả năng kết nối giữa việc ban hành và thực hiện chính sách. Trên thực tế, rất nhiều chính sách ứng phó ngắn hạn của Việt Nam, mặc dù được ban hành rất nhanh nhưng lại không thực hiện được mục tiêu đề ra.
Ví dụ như Chương trình phục hồi kinh tế được thông qua hồi tháng 1/2022, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 2%, gói phát triển cơ sở hạ tầng và nhà ở xã hội đều giải ngân rất chậm. Nguyên nhân chính là do cơ chế thực hiện không hiệu quả mà việc này lại liên quan đến cải cách thế chế trong trung và dài hạn.
Đúng ra, những cú sốc địa chính trị, địa kinh tế và dịch bệnh trong ba năm vừa qua phải tạo đà và là tiền đề để đẩy mạnh các cải cách thể chế trung và dài hạn còn gọi là "crisis-driven reforms", như những gì đã xảy ra trong những thập kỷ trước đây.
Nhưng thực tế cho thấy, các chính sách gần đây của Việt Nam chỉ tập trung vào các vấn đề trước mắt và gần như xao nhãng các mục tiêu cải cách trung và dài hạn.
Đã đến lúc cần chấp nhận trạng thái “bất bình thường mới” của nền kinh tế thế giới, để từ đó coi đây như là những động lực để thúc đẩy cải cách thể chế nhanh hơn, triệt để và sâu rộng hơn nữa. Rào cản thế chế là nguyên nhân chính khiến các nỗ lực cải cách quan trọng không thể phát huy hiệu quả.
Trong thị trường tài chính, những bất cập về thể chế khiến các thị trường vốn khác chưa phát triển đủ mạnh để chia sẻ gánh nặng với hệ thống ngân hàng. Lãi suất có thể hạ nhưng doanh nghiệp cũng chưa chắc hấp thụ được vốn tín dụng được vì vướng các vấn đề thể chế.
Giải ngân đầu tư công liên tục bị nhỡ kế hoạch nhiều năm cũng do sự thiếu hiệu quả của thế chế. Các thách thức với mạng lưới an sinh xã hội cũng đều là vấn đề thể chế. Quản lý đô thị, quản lý đất đai liên tục bị thay đổi, thậm chí là vỡ quy hoạch cũng ở khâu thể chế.
Gần như toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế đều bị hàng rào thể chế làm giảm đi hiệu quả, thậm chí không thể phát triển.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong nhiều năm qua trong cải cách thể chế nhưng dường như trong ba năm đối mặt với dịch bệnh và các biến động địa chính trị lớn, ưu tiên cải cách thể chế trung và dài hạn phần nào đã bị gạt sang một bên, thay vào đó là các chính sách ứng phó ngắn hạn.
Nhìn rộng ra thế giới, từ sau Thế chiến thứ hai chỉ có vài nền kinh tế đang phát triển trở thành các nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Sự thành công của các nền kinh tế này không hẳn là do mô hình phát triển kinh tế ưu việt, cũng không do sự hỗ trợ kinh tế của Mỹ và phương Tây trong chiến tranh lạnh hay do họ có năng lực tốt hơn các nước khác.
Cốt lõi và quan trọng nhất đó là họ đã thành công trong cải cách thể chế.
Minh chứng rõ ràng là hầu hết các nước đang phát triển áp dụng mô hình kinh tế mở cửa, tự do hoá thương mại, tài chính nhưng sau nhiều thập kỷ vẫn không thể trở thành những nền kinh tế phát triển.
Cũng rất nhiều nước có năng lực và chuyên môn cao về ngôn ngữ, văn hoá rất dễ hoà nhập với Mỹ và phương Tây nhưng không những không phát triển, mà còn tụt hậu.
Cũng rất nhiều nền kinh tế nhận được sự hỗ trợ tương tự Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, có liên minh kinh tế, quân sự với Mỹ và phương Tây tương tự nhưng đến nay vẫn giậm chân tại chỗ.
Câu trả lời vẫn là cải cách thể chế. Đây cũng là mấu chốt quyết định sự phát triển, thành công thất bại của mọi nền kinh tế. Điều này rất khó, vì vậy cho đến nay cũng chỉ có vài nền kinh tế thực sự thành công.
Đã đến lúc Việt Nam phải nhìn nhận rằng thế giới đã và sẽ ở trong trạng thái “bất bình thường mới”. Các cú sốc địa chính trị, thiên tai, dịch bệnh sẽ thường xuyên hơn.
Nếu Việt Nam chỉ tập trung ban hành chính sách ngắn hạn để ứng phó với các cú sốc này thì sẽ dần hình thành tư duy chính sách chạy theo sự kiện, mất tính chủ động. Điều này cũng làm mất định hướng phát triển trung và dài hạn, đặc biệt trong cải cách thể chế.
Do vậy, đã đến lúc cần từ bỏ tư duy chính sách ngắn hạn, không chạy theo những biến động, con số và sự kiện trước mắt, đánh mất phương hướng trung và dài hạn.
Ngược lại, phải tận dụng những cú sốc này để thúc đẩy nhanh hơn nữa những nỗ lực cải cách trong trung và dài hạn với mục đích tăng cường kết nối giữa việc ban hành và thực hiện chính sách. Từ đó, giúp nền kinh tế ứng phó nhanh và hiệu quả với các cú sốc đang dần trở nên thường xuyên hơn.
TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế,
Nguyên chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia ở Việt Nam của ADB