|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Quản lý thiếu minh bạch, dự án BOT bị đánh giá tiêu cực

09:48 | 15/08/2017
Chia sẻ
Năng lực giám sát về cơ chế thu phí còn yếu, thiếu minh bạch trong quá trình quản lý hợp đồng, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, tham vấn cộng đồng khi thực hiện dự án... là quan điểm của một số bộ về các dự án BOT giao thông.
quan ly thieu minh bach du an bot bi danh gia tieu cuc Ai là chủ đầu tư thực sự của BOT Cai Lậy?
quan ly thieu minh bach du an bot bi danh gia tieu cuc Có không lợi ích nhóm sau các trạm thu phí đường bộ?
quan ly thieu minh bach du an bot bi danh gia tieu cuc Giảm phí, nhiều dự án BOT vẫn lãi lớn
quan ly thieu minh bach du an bot bi danh gia tieu cuc
Một trong các trạm thu phí khiến dân bức xúc.

Tiếp tục phiên họp thứ 13, cả ngày 15/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiến hành giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)”.

Trước đó, một số bộ liên quan cũng đã có văn bản nêu quan điểm về những tồn tại của phương thức đầu tư đang gây nhiều tranh cãi này...

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì các dự án BOT giao thông hiện nay chủ yếu do các nhà đầu tư trong nước thực hiện, chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Vị trí trạm thu phí, mức phí còn nhiều bất cập, thiếu minh bạch. Trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước về tính hiệu quả của dự án như mức lợi nhuận của nhà đầu tư, thời hạn nhà đầu tư được nhà nước nhượng quyền thu phí của người sử dụng dịch vụ, giá sử dụng công trình/dịch vụ công, mức độ tham gia của nhà nước... chưa rõ ràng.

Năng lực giám sát về cơ chế thu phí còn yếu, thiếu minh bạch trong quá trình quản lý hợp đồng. Kinh nghiệm đầu tư, quản lý đầu tư, quản lý vận hành và năng lực tài chính, kỹ thuật còn rất hạn chế - báo cáo của bộ này nêu rõ.

Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn nhìn nhận, một số dự án BOT (thực hiện trong giai đoạn chuyển tiếp) huy động nguồn vốn đầu tư từ các nhà đầu tư và các ngân hàng thương mại là các doanh nghiệp Nhà nước (hoặc doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa) chủ yếu là vốn tín dụng ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng cho đầu tư dài hạn, nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro an toàn hệ thống ngân hàng.

Đánh giá nguyên nhân, Bộ này cho rằng: do áp lực thu hút đầu tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông, nên một số dự án chưa có sự nghiên cứu và chuẩn bị kỹ. Các dự án BOT chủ yếu do các nhà đầu tư đề xuất, do vậy cá biệt một số dự án còn mang tính chủ quan của các nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, không thể thiếu lý do, đây là hình thức đầu tư mới, nhiều cán bộ, công chức, nhà đầu tư còn hạn chế về kinh nghiệm và thực tiễn trong xây dựng chính sách, thực hiện và quản lý, giám sát các dự án thực hiện theo hình thức đối tác công - tư.

Trước những tồn tại này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng cần tăng cường công tác giám sát của Quốc hội, người dân xung quanh việc triển khai các dự án BOT để bảo đảm đúng trách nhiệm của từng bên, tạo sự công khai, minh bạch trong thực thi các chính sách.

Liên quan đến vị trí trạm thu phí - vấn đề nóng ran dư luận khi nói đến dự án BOT giao thông - Bộ Tài chính cho biết: đầu tư các dự án BOT đường bộ đòi hỏi lượng vốn lớn, trong khi khả năng của các nhà đầu tư có hạn, nên cơ bản các dự án có đoạn đường xây dựng ngắn. Để các trạm thu phí không quá dày, thông tư 159/2013 của Bộ Tài chính có quy định khoảng cách giữa các trạm thu phí tối thiểu là 70 km, và nếu không đảm bảo khoảng cách này, thì Bộ Giao thông Vận tải phải thống nhất với UBND cấp tỉnh và Bộ Tài chính trước khi lập trạm thu phí. Do vậy, vẫn sinh ra nhiều trạm không đảm bảo khoảng cách này bởi nhiều lý do.

Những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện dự án BOT cũng được nêu tại báo cáo của Bộ Tài chính. Như, năng lực một số nhà đầu tư còn hạn chế, do chủ yếu là nhà đầu tư trong nước, trong đó có một số trường hợp nhà đầu tư không huy động được đủ nguồn vốn chủ sở hữu theo cam kết hoặc khó khăn trong huy động các nguồn vốn vay. Điều này đã dẫn đến việc chậm trễ triển khai, kéo dài tiến độ thực hiện và cả việc phải điều chỉnh, thay đổi nhà đầu tư.

Ngoài ra, một số công trình sau khi đưa vào khai thác đã xảy ra sự cố như lún đường đầu cầu, mặt đường và hằn lún vệt bánh xe, ảnh hưởng đến chất lượng giao thông, gây bức xúc cho xã hội. Điều này cũng phản ánh một phần năng lực quản lý, giám sát tổ chức thực hiện của nhà đầu tư còn hạn chế.

Hạn chế tiếp theo là nguồn vốn thực hiện chủ yếu là vay từ các ngân hàng thương mại trong nước, thường là các khoản vay ngắn hạn, lãi suất cao nên làm chi phí đầu tư cao, thời gian thu hồi vốn dài. Tất nhiên, các chi phí này đều phản ánh hết lên phí thu trên đầu phương tiện, làm tăng thêm căng thẳng và bức xúc của người dân.

Một số dự án BOT đã hoàn thành, đưa vào vận hành nhưng chậm quyết toán để làm căn cứ điều chỉnh phương án tái chính, nên thiếu cơ sở minh bạch thông tin.

Đề cập phản ứng trái chiều của người dân liên quan đến thu phí và quản lý doanh thu của một số trạm BOT, Bộ Tài chính cho rằng có thể do việc đặt trạm chưa hợp lý, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, tham vấn cộng đồng khi thực hiện dự án. Đồng thời, việc minh bạch trong quản lý thu phí tại một số trạm BOT chưa được thực hiện tốt cũng là một yếu tố tạo ra những đánh giá tiêu cực từ xã hội đối với chính sách BOT nói chung.

Dưới góc nhìn của Bộ Xây dựng, việc triển khai đầu tư ồ ạt, nhất là các dự án đầu tư hạ tầng giao thông theo hình thức BOT phát triển tương đối “nóng” cùng với các hạn chế trong quản lý thời gian qua đã khiến cơ chế chính sách về đầu tư chưa đảm bảo được hài hòa lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và người dân, chưa đảm bảo được đúng nguyên tắc thị trường, chưa thu hút được khu vực tiềm năng là các nguồn đầu tư từ nước ngoài.

Hà Vũ