VCCI kiến nghị bỏ Giấy phép đầu tư ra nước ngoài

VCCI cho rằng, ngay cả các hoạt động đầu tư trong nước, không phải hoạt động đầu tư nào cũng yêu cầu phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Trong khi đó, tất cả hoạt động đầu tư ra nước ngoài đều phải xin giấy phép là điều chưa hợp lý.

Trả lời Công văn của Bộ Tài chính về việc đề nghị tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Nghị định số 31/2021/NĐ-CP, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản kiến nghị sửa đổi hai văn bản này.

Một trong số những kiến nghị của VCCI là việc bỏ Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với các hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Lý giải về kiến nghị này, VCCI cho hay, việc doanh nghiệp tư nhân trong nước đầu tư ra nước ngoài đang dần trở thành một xu hướng phổ biến khi doanh nghiệp Việt Nam tham gia chủ động hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu, đây cũng là cách thức quan trọng để nhập khẩu công nghệ, phát triển thị trường, tìm kiếm khách hàng…

Tuy nhiên, cơ chế quản lý trên đang tạo gánh nặng lớn về thủ tục cho các nhà đầu tư và chưa hợp lý.

Dẫn chứngtheo quy định của Luật Đầu tư, hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài đang được kiểm soát rất chặt chẽ theo hướng: Xác định các ngành nghề cấm đầu tư ra nước ngoài; các ngành nghề đầu tư có điều kiện.

Đồng thời, những dự án có vốn 20.000 tỷ đồng trở lên phải được Quốc hội chấp thuận chủ trương đầu tư; những dự án có yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định; Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho dự án có vốn từ 800 tỷ đồng trở lên); Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ đồng trở lên.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với các hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Các nội dung thẩm định đề nghị chấp thuận chủ trương ra nước ngoài gồm: Việc đáp ứng tiêu chí xác định dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội; Sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; Sự phù hợp của dự án đầu tư với quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật này;

Hình thức, quy mô, địa điểm và tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn; Đánh giá mức độ rủi ro tại nước tiếp nhận đầu tư; Cơ chế, chính sách đặc biệt, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và điều kiện áp dụng (nếu có).

Quy định trên có nghĩa, các dự án đầu tư ra nước ngoài bằng nguồn vốn tư nhân, có quy mô vốn trên 800 tỷ đồng, hoặc trên 20.000 tỷ đồng phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ mới được thực hiện đầu tư.

Điều này tạo ra bất cập khi hoạt động đầu tư ra nước ngoài sẽ phải tuân thủ các quy định về đầu tư, kinh doanh tại nước sở tại. Pháp luật Việt Nam sẽ không điều chỉnh đối với các yếu tố này. Do đó, yêu cầu cơ quan nhà nước Việt Nam đánh giá về “hình thức, quy mô, địa điểm và tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vốn đầu tư ra nước ngoài, nguồn vốn” là không khả thi và không cần thiết;

Pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp ghi nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quyết định đầu tư, kinh doanh của mình. Do đó, Nhà nước đánh giá “sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài”, “đánh giá mức độ rủi ro tại nước tiếp nhận đầu tư” là can thiệp vào quyền tự quyết, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà đầu tư.

Đối với những ngành nghề thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh, truyền hình, viễn thông – không rõ các tác động, hoặc rủi ro gì đối với kinh tế – xã hội trong nước, để Nhà nước phải kiểm soát và chấp nhận chủ trương đầu tư trước khi đầu tư ra nước ngoài, trong khi điều chỉnh các hoạt động này lại là pháp luật của các nước sở tại.

Đối với những hoạt động đầu tư ra nước ngoài khác (không thuộc trường hợp phải chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài) phải thực hiện Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài là chưa phù hợp và hoàn toàn không rõ về mục tiêu quản lý.

Ngay cả hoạt động đầu tư trong nước, không phải hoạt động đầu tư nào cũng yêu cầu phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thì tất cả hoạt động đầu tư ra nước ngoài đều phải xin giấy phép để được đầu tư ra nước ngoài là chưa hợp lý.

Trong khi, các điều kiện đầu tư lại do pháp luật nước ngoài quy định, không phải là pháp luật Việt Nam. Điều này tạo gánh nặng rất lớn về thủ tục cho nhà đầu tư, khi bất kì sự thay đổi nào của hoạt động đầu tư cũng phải thực hiện thủ tục để điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.

"Nếu có những lo ngại liên quan đến ngoại hối đã có sự quản lý của hệ thống pháp luật về ngoại hối", văn bản từ VCCI chỉ ra.

Hoạt động chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với doanh nghiệp nhà nước có thể là cần thiết, bởi vì nguồn vốn đầu tư là vốn của Nhà nước. Tuy nhiên, kiểm soát hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nguồn vốn tư nhân, theo hình thức cấp phép, dựa vào quy mô vốn hoặc theo nhóm ngành nghề, dường như chưa tìm thấy mục tiêu rõ ràng, hợp lý nào.

Trong khi đây lại là hình thức hạn chế đáng kể đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư và đi ngược lại chính chủ trương “Nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.” đang ghi nhận tại khoản 1 Điều 51 Luật Đầu tư.

Vì vậy, VCCI đề nghị sửa đổi Luật Đầu tư theo hướng cân nhắc bỏ cơ chế yêu cầu phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.

Đường dẫn bài viết: https://vietnambiz.vn/vcci-kien-nghi-bo-giay-phep-dau-tu-ra-nuoc-ngoai-202561012954549.htm

In bài biết

Bản quyền thuộc https://vietnambiz.vn/