Phát biểu tại Tọa đàm "Giải pháp tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững" sáng ngày 16/12, ông Lê Quang Trung, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (VIMC, Mã: MVN) cho biết để đạt được kim ngạch xuất nhập khẩu 835 tỷ USD, hệ thống vận tải, cảng phải xử lý khối lượng hàng tương đương khoảng 900 triệu tấn. Trong đó VIMC đang xử lý khoảng 1/4 khối lượng hàng hoá này.
Ông Lê Quang Trung, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Ảnh: VIMC).
Dự kiến, tổng lượng hàng hoá được xử lý tại các cảng có thể đẩy lên 1 tỷ tấn vào năm tới. Do vậy, hệ thống logistics và chi phí logistics đóng vai trò quan trọng.
Tuy nhiên, theo ông Trung hiện nay thời gian vận chuyển hàng hoá vẫn còn là mối bất cập lớn. Ông lấy ví dụ thời gian vận chuyển 1 xe container hoa quả từ Thanh Đảo (Trung Quốc) mất 5,5 ngày.
Dù quãng đường từ Sơn Đông (Trung Quốc) đến cửa khẩu Hữu Nghị dài 2.200 km nhưng thời gian vận chuyển chỉ mất 1,5 ngày. Trong khi đó, quãng đường từ cửa khẩu Hữu Nghị vào đến TP HCM chỉ dài 1.700 km thì mất tới 4 ngày, bao gồm cả thời gian thông quan.
"Mặt hàng nông sản, hoa quả lại có tính chất thời vụ và đặc tính tự chính trong quá trình vận chuyển. Nếu không đảm bảo được thời gian giao hàng thì giá trị hàng hoá sẽ giảm xuống”, ông Trung nói.
Do đó, ông Trung kiến nghị loạt giải pháp. Đầu tiên, Nhà nước cần hoàn thiện hạ tầng vận tải đa phương thức từ cảng biển, đường bộ, đường sắt, đường không, đường thủy nội địa. Điều này đóng vai trò làm “xương sống” cho xuất khẩu bền vững, tăng tính cạnh tranh cho hàng hoá.
“Xuất khẩu bền vững không thể tách rời một hệ thống vận tải – logistics đồng bộ. Cần chuyển mạnh từ phát triển đơn lẻ sang kết nối hiệu quả giữa cảng biển – đường bộ – đường sắt – đường không - đường thủy nội địa. Điều này sẽ trực tiếp hỗ trợ xuất khẩu bền vững, ổn định, giảm chi phí logistics trên mỗi đơn vị hàng hóa và rút ngắn thời gian vận chuyển, đặc biệt với hàng nông sản vốn có tính thời vụ", ông Trung nhấn mạnh.
Thứ hai, ông Trung cho rằng các Bộ, ngành liên quan cần đẩy mạnh chuỗi vận tải xanh, thông minh, phát triển thương mại điện tử, gắn với yêu cầu của thị trường quốc tế.
“Rõ ràng, chuỗi vận tải xanh, thông minh - thương mại điện tử cực kỳ quan trọng. Do đó hạ tầng về cảng xanh, cảng thông minh, hệ thống kho bãi thông minh cần phải có tính kết nối. Quy mô của thương mại điện tử là trên 39 tỷ USD vào 2025 và dự kiến tăng trưởng hai con số. Điều này càng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết nối hạ tầng, trong đó bao gồm cả hạ tầng thông tin, dữ liệu lớn (Big Data)”, ông Trung chia sẻ.
Thứ ba, ông Trung đề xuất đẩy mạnh hệ thống đường thuỷ nội địa, tăng hiệu quả nền tảng logistics.
Cuối cùng, ông cho rằng cần tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc định hướng ngành logistics, quy hoạch ngành, phát huy nguồn lực của doanh nghiệp, đẩy mạnh cơ chế PPP, thu hút đầu tư.
Trước đó, phát biểu tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025 diễn ra hồi cuối tháng 11, Thủ tướng Phạm Minh Chính ngành logistics Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế, với 6 điểm nghẽn, theo Báo Chính phủ.
Chi phí logistics ở Việt Nam vẫn còn ở mức cao so với các nước trong khu vực (Singapore chỉ 8%, Malaysia 12%, trung bình thế giới khoảng 11%). Liên kết vùng, kết nối hạ tầng chưa đồng bộ, hạn chế, dễ bị tác động khi xảy ra thiên tai.
Doanh nghiệp logistics quy mô nhỏ chiếm đa số, năng lực cạnh tranh yếu, thiếu vắng doanh nghiệp lớn. Chưa hình thành được trung tâm logistics cấp quốc gia trung chuyển hàng hoá quốc tế. Ngành còn thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, phù hợp với môi trường làm việc quốc tế.
Thể chế logistics còn chưa quy định cụ thể các loại hình dịch vụ logistics mới cho thương mại điện tử, logistics xanh, logistics hàng đặc biệt. Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong logistics thiếu cơ sở dữ liệu dùng chung và chuẩn đo lường thống nhất.
Theo Thủ tướng, ngành logistics Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa phát triển. Để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân trên 10%/năm liên tục trong 5 năm tới, các ngành, các địa phương, lĩnh vực phải tăng trưởng 2 con số.
Trong đó, riêng ngành logistics phải đạt tốc độ tăng trưởng trung bình gấp 1,5 lần mức tăng trưởng GDP. Cụ thể, tỷ trọng giá trị tăng thêm của dịch vụ logistics trong tổng sản phẩm trong nước phải đạt 6-7%; tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm đạt 15-16%; kéo giảm chi phí logistics so với tổng sản phẩm trong nước xuống tương đương trung bình thế giới, khoảng 11-12%...
Đường dẫn bài viết: https://vietnambiz.vn/nghich-ly-logistics-hang-tu-trung-quoc-ve-bien-gioi-nhanh-hon-van-chuyen-noi-dia-viet-nam-202512161958742.htm
In bài biếtBản quyền thuộc https://vietnambiz.vn/