|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá lúa gạo hôm nay 1/10: Tăng, giảm trái chiều trong phiên đầu tháng

10:51 | 01/10/2021
Chia sẻ
Giá lúa gạo hôm nay 1/10 đã có sự thay đổi với một số giống lúa gạo. Tính đến giữa tháng 9, các địa phương đã thu hoạch được hơn 1,6 triệu ha lúa Hè Thu, năng suất ước đạt 56,5 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2020.

Giá lúa gạo hôm nay

Xem thêm: Giá lúa gạo hôm nay 4/10

Tại An Giang, giá lúa hôm nay (1/10) điều chỉnh nhẹ với IR 50404 xuống mức 4.500 - 4.700 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg so với hôm qua, trong khi nếp vỏ (khô) tăng 100 đồng lên mức 6.800 - 7.000 đồng/kg.

Các loại còn lại tiếp tục đứng yên như lúa OM 9582  giá 4.800 - 4.900 đồng/kg, lúa Đài thơm 8 ở mức 5.600 - 5.800 đồng/kg, OM 5451 giá 5.000 - 5.200 đồng/kg.

Lúa OM 6976 giá 5.100 - 5.200 đồng/kg, OM 18 có giá 5.500 - 5.600 đồng/kg, Nàng hoa 9 có giá 6.000 - 6.100 đồng/kg, Nàng Nhen khô 11.500 - 12.000 đồng/kg.

Các loại nếp như nếp Long An (khô) giữ nguyên giá là 6.400 đồng/kg, nếp vỏ (tươi)- 3 tháng rưỡi tiếp tục có giá 4.200 - 4.300 đồng/kg, nếp tươi Long An ở mức 4.500 - 4.700 đồng/kg.

Giá lúa

ĐVT

Giá mua của thương lái (đồng)

Tăng (+), giảm (-) so với hôm qua

- Lúa Jasmine

kg

-

 

- Lúa IR 50404

kg

4.500 - 4.700

 -100

- Lúa OM 9582

kg

4.800 - 4.900

 -

- Lúa Đài thơm 8

kg

5.600 - 5.800

 -

- Lúa OM 5451

kg

5.000 - 5.200

 -

- Lúa OM 6976

kg

5.100 - 5.200

 -

- Lúa OM18

Kg

5.500 - 5.600

-

- Nàng Hoa 9

kg

6.000 - 6.100

-

- Lúa IR 50404

kg

5.500

 -

- Lúa Nàng Nhen (khô)

kg

11.500 - 12.000

 -

- Nếp vỏ (tươi)- 3 tháng rưỡi

kg

-

-

- Nếp Long An (khô)

kg

6.400

-

- Nếp vỏ (khô)

kg

6.800 - 7.000

 +100

Giá gạo

 Giá bán tại chợ

(đồng)

Tăng (+), giảm (-) so với hôm qua

- Gạo thường

kg

10.500 - 11.500

    -500

- Gạo Nàng Nhen

kg

20.000

- Gạo thơm thái hạt dài

kg

17.000 - 18.000

 -

- Gạo thơm Jasmine

kg

14.000 - 15.000

                           -

- Gạo Hương Lài

kg

18.000

  -

- Gạo trắng thông dụng

kg

15.000

 -

- Gạo Nàng Hoa

kg

16.200

 -

- Gạo Sóc thường

kg

13.500 - 14.000

 -

- Gạo Sóc Thái

kg

18.000

 -

- Gạo thơm Đài Loan

kg

20.000

 -

- Gạo Nhật

kg

19.000

 -

- Nếp ruột

kg

13.000 - 14.000

 -

- Cám

kg

8.000

                           -

   Bảng giá lúa gạo hôm nay 1/10 tại tỉnh An Giang. (Nguồn: Sở NN&PTNT An Giang) 

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến giữa tháng 9, các địa phương đã thu hoạch được hơn 1,6 triệu ha lúa Hè Thu, chiếm hơn 84% diện tích gieo cấy và bằng 101,5% cùng kỳ năm trước. 

Năng suất lúa Hè Thu cả nước ước tính đạt 56,5 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha so với vụ hè thu năm 2020; sản lượng đạt 11,03 triệu tấn, tăng 282.700 tấn.

Giá các loại gạo hôm nay cũng có sự thay đổi vào ngày đầu tháng mới. Cụ thể, tại các chợ An Giang, gạo thường giảm 500 đồng xuống mức 10.500 - 11.500 đồng/kg.

Các loại còn lại giữ ổn định như gạo nàng Nhen có giá  20.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài 16.000 - 18.000 đồng/kg.

Gạo Jasmine ở mức 14.000 - 15.000 đồng/kg, Hương Lài là 18.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng giá 15.000 đồng/kg; nàng Hoa 16.200 đồng/kg; Sóc thường 14.000 đồng/kg, Sóc Thái giá 18.000 đồng/kg, gạo thơm Đài Loan giá 20.000 đồng/kg, gạo Nhật giá 19.000 đồng/kg và nếp ruột 13.000 - 14.000 đồng/kg.

Đông Nam Bộ tăng mạnh lúa Đông Xuân 2021-2022

Theo dự báo của Đài khí tượng thủy văn Nam Bộ, trạng thái trung tính đang chuyển dần sang La Nina, với xác suất kéo dài hết năm 2021 là khoảng 70%.

Đây là cơ sở để toàn vùng Nam Bộ gieo sạ 1,6 triệu ha lúa Đông Xuân 2021-2022, tăng 2.000 ha so với vụ năm ngoái. Tổng sản lượng toàn vùng khoảng 11,4 triệu tấn lúa, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là hơn 10,9 triệu tấn, báo Nông nghiệp Việt Nam đưa tin.

Tăng chủ yếu là vùng Đông Nam Bộ, với diện tích tăng thêm 1.500 ha (tương đương gần 2%). Cục Trồng trọt dự kiến, khu vực này tăng sản lượng khoảng 15.000 tấn so với vụ đông xuân 2020-2021.

Với vựa lúa chính ĐBSCL, tổng diện tích gieo sạ là 1,52 triệu ha, tăng 400 ha so với vụ trước. Tuy nhiên, do khả năng xâm nhập mặn cao hơn năm trước, sản lượng dự kiến giảm khoảng 26.000 tấn.

Giảm nhiều nhất là Bến Tre. Do chịu ảnh hưởng của cả khô hạn lẫn xâm nhập mặn, tỉnh không gieo sạ vụ đông xuân, với khoảng 11.000 ha. Thay vào đó, tỉnh ĐBSCL này chuyển đổi sang cây trồng cạn phù hợp.

Vụ đông xuân năm nay, vùng ven biển ĐBSCL cách biển 20-30 km được dự báo chịu ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn. Ngoài ra, vùng phù sa ngọt cách biển từ 30-70 km cũng có thể chịu ảnh hưởng, nếu xâm nhập mặn sớm, sâu và thời gian kéo dài với nồng độ mặn cao. Riêng Đồng Tháp mười và một phần tứ giác Long Xuyên gần như sẽ không chịu ảnh hưởng.

P. Dương