|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Quốc tế

Sự thống trị lâu đời của USD [Bài 2]: Nhiều nước muốn lật đổ nhưng chưa làm được hoặc không dám làm

12:41 | 12/05/2023
Chia sẻ
Để lật đổ sự thống trị của USD, các quốc gia phải xây dựng một nền kinh tế hùng mạnh hơn nước Mỹ, gia tăng quy mô và sự minh bạch trên thị trường tài chính - chứng khoán, thay đổi hệ thống thanh toán quốc tế, thả nổi tỷ giá, cho phép dòng vốn tự do luân chuyển, chấp nhận thâm hụt thương mại triền miên, .... Một số nhiệm vụ quá khó khăn, số khác lại kéo theo những hệ lụy không mong muốn.

Việc USD làm đồng tiền dự trữ quốc tế kéo theo nhiều hệ lụy với nước Mỹ. (Ảnh minh họa: AFP).

Điều các nước chưa thể làm: Trở nên hùng mạnh hơn nước Mỹ

Để một đồng tiền được chọn làm dự trữ toàn cầu, đất nước phát hành ra đồng tiền đó phải có nền kinh tế khổng lồ và thị trường tài chính quy mô lớn, minh bạch. Mỹ hiện đang dẫn đầu thế giới về quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng như vốn hóa thị trường cổ phiếu, trái phiếu, từ đó tạo chỗ dựa vững chắc cho USD.

Những người cầm USD tin tưởng rằng kể cả khi các quốc gia khác tẩy chay USD thì nền kinh tế lớn nhất hành tinh vẫn sẽ chấp nhận đồng bạc xanh làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch mua tài sản, hàng hóa hoặc chứng khoán trên đất Mỹ.

Từ khoảng năm 1974 đến nay, USD còn được dùng để niêm yết giá và thanh toán cho các giao dịch dầu mỏ của hầu hết cường quốc năng lượng như Arab Saudi, Kuwait, UAE, … Các vương quốc Trung Đông đồng ý nhận USD khi bán dầu để đổi lấy việc Mỹ cam kết sẽ đảm bảo an ninh quân sự cho Vùng Vịnh, các nước khác cũng làm theo thông lệ này.

USD không còn được đảm bảo bằng vàng thỏi như thời thỏa thuận Bretton Woods (1944 - 1971) nhưng lại gắn chặt với “vàng đen” thiết yếu trong hoạt động kinh tế.

Nhiều nước muốn đồng tiền của mình hạ bệ USD, nhưng không nước nào có thể đưa quy mô GDP và thị trường tài chính vượt qua Mỹ. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ cũng nằm trong top đầu thế giới.

Mỹ có các sàn chứng khoán lớn nhất thế giới, sẵn sàng đón dòng tiền USD từ nước ngoài vào đầu tư.

Bản thân việc USD được dùng phổ biến trong thời gian dài có nghĩa là các chính phủ, doanh nghiệp và hệ thống tài chính khắp thế giới đã quen với đồng bạc xanh, hạ tầng thanh toán liên ngân hàng được xây dựng dành cho USD. Thời gian, công sức và chi phí để chuyển sang một đồng tiền dự trữ toàn cầu khác là cực lớn.

USD có nhược điểm, nhưng nếu không tồn tại phương án thay thế nào thực sự vượt trội, các quốc gia sẽ không sẵn sàng từ bỏ đồng USD vốn dĩ đã quá quen thuộc.  

Điều mà các nước không dám làm: Thả nổi tỷ giá, bỏ kiểm soát vốn, chấp nhận thâm hụt thương mại

Tình trạng nhập siêu kinh niên

Để USD làm đồng tiền dự trữ của toàn cầu, Mỹ phải liên tục bơm USD ra thế giới thông qua thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai. Mỹ nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, tức là số tiền trả cho nước ngoài để mua hàng hóa, dịch vụ lớn hơn số tiền thu về, qua đó làm tăng nguồn cung USD ở nước ngoài.

Tài khoản vãng lai (chủ yếu bao gồm cán cân thương mại) của Mỹ đã thâm hụt trong 31 năm liên tục từ 1992 đến 2022, tổng giá trị hơn 13.400 tỷ USD.

Ngược lại, từ 1997 đến 2022, Trung Quốc liên tục thặng dư tài khoản vãng lai, tổng cộng hơn 4.400 tỷ USD, Eurozone thặng tư tổng cộng gần 2.600 tỷ USD, Nhật Bản hơn 3.600 tỷ USD, như biểu đồ bên dưới cho thấy. Để nhân dân tệ, euro hay yen trở thành tiền dự trữ toàn cầu, các quốc gia này sẽ cần từ bỏ thặng dư thương mại.

Mỹ thâm hụt tài khoản vãng lai liên tục từ 1992 đến 2022, đưa hơn 13.400 tỷ USD ra thị trường quốc tế để làm nhiệm vụ đồng tiền dự trữ toàn cầu. Các nền kinh tế lớn khác ghi nhận thặng dư lớn.

Cán cân thương mại có mối liên hệ mật thiết với tỷ giá. Nhu cầu sử dụng USD rất lớn nên đồng bạc xanh thường bị định giá quá cao (overvalue), khiến cho hàng hóa sản xuất ở Mỹ kém cạnh tranh so với hàng của các nước khác. Mỹ xuất khẩu khó khăn nhưng nhập khẩu lại thuận lợi, tạo ra thâm hụt thương mại khổng lồ như vừa nói ở trên.

Việc hàng nước ngoài tràn vào Mỹ cộng thêm nhiều doanh nghiệp chuyển sản xuất ra các nước khác để giảm chi phí liên quan tới tỷ giá và nhân công đã làm Mỹ mất đi hàng triệu việc làm, nhiều nhà máy phải đóng cửa. Khu vực thiệt hại nặng nề nhất là Vành đai Rỉ sét (Rust Belt) gồm các bang Illinois, Indiana, Michigan, Missouri, New York, Ohio, Pennsylvania, West Virginia, và Wisconsin.

Nhiều chuyên gia và nghị sỹ quốc hội đã kêu gọi Mỹ từ bỏ sự vị thế đồng tiền dự trữ toàn cầu của USD vì cho rằng cái giá phải trả là quá đắt, không tương xứng với lợi ích thu được.

Trong khi đó, Trung Quốc cố ý định giá thấp (undervalue) nhân dân tệ nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước và hỗ trợ xuất khẩu, tạo ra hàng chục triệu việc làm và thặng dư thương mại lớn.

Bộ ba bất khả thi: Độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá, tự do lưu chuyển vốn

Một trong những lý thuyết nổi tiếng trong kinh tế quốc tế là Bộ ba bất khả thi: Một quốc gia không thể đồng thời đạt được cả ba mục tiêu: Chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá hối đoái cố định, và dòng vốn nước ngoài tự do luân chuyển. Mỗi nước chỉ có thể đạt được nhiều nhất là 2/3 mục tiêu kể trên.

Trong trường hợp của Mỹ, Washington lựa chọn tự chủ về chính sách tiền tệ và cho dòng vốn tự do ra vào, và chấp nhận để USD biến động theo cung cầu của thị trường.

Mỹ có thể tăng hoặc giảm lãi suất (chính sách tiền tệ tự chủ) tùy theo bối cảnh cần chống lạm phát hoặc tránh suy thoái. Khi đó, dòng vốn quốc tế sẽ chảy vào để được hưởng lãi suất USD cao hơn, hoặc chảy ra vì lợi nhuận của USD quá thấp (tự do lưu chuyển vốn).

Dòng tiền của thị trường khiến cho tỷ giá USD biến động ngoài tầm kiểm soát của Washington. Mỹ không thể giữ cho giá trị của USD ở mức thấp giả tạo để hỗ trợ việc làm trong nước và thúc đẩy xuất khẩu.

Trong trường hợp Hong Kong, Đặc khu Hành chính này neo giá trị của HKD với USD và đạt được hai mục tiêu là ổn định tỷ giá và dòng vốn tự do luân chuyển, nhưng không tự chủ về chính sách tiền tệ do phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ.

Trong khi đó, Trung Quốc chọn hai mục tiêu là tự chủ về chính sách tiền tệ và ổn định tỷ giá, đồng thời phải chấp nhận việc dòng vốn không được tự do đi lại qua biên giới.

Nói cách khác, Bắc Kinh kiểm soát chặt dòng tiền đầu tư ra nước ngoài cũng như dòng tiền từ bên ngoài muốn đi vào Trung Quốc để tránh tác động tới tỷ giá, giữ lợi thế cho hàng xuất khẩu, tạo thêm việc làm trong nước.

Nếu lựa chọn như Mỹ, tức là cho dòng vốn tự do luân chuyển và từ bỏ kiểm soát tỷ giá, Trung Quốc sẽ không thể hỗ trợ xuất khẩu theo ý mình, sản xuất trong nước đình trệ, thất nghiệp tăng lên, có thể kéo theo bất ổn xã hội.

Việc bỏ kiểm soát vốn còn kéo theo nhiều hệ lụy khác mà Bắc Kinh không muốn.

Gỡ bỏ mọi rào cản với dòng vốn

Những nước nắm giữ nhiều USD từ việc xuất khẩu hàng hóa cho Mỹ có nhu cầu tái đầu tư số tiền này, và một lựa chọn hấp dẫn là mua cổ phiếu, trái phiếu và các tài sản khác trên đất Mỹ. Khi có nhu cầu tiền mặt, các nhà đầu tư nước ngoài lại bán tài sản để lấy USD.

Mỹ hiện nay có thị trường trái phiếu lớn nhất thế giới, vượt xa Trung Quốc, châu Âu, Nhật Bản, .... Chính phủ Mỹ thâm hụt tài khóa liên miên, có nhu cầu vay nợ nhiều thông qua phát hành trái phiếu, sẵn sàng bán trái phiếu Kho bạc cho nhà đầu tư nước ngoài, không kiểm soát dòng tiền vào - ra, nên USD và trái phiếu Mỹ rất được ưa chuộng.

Tóm lại, thâm hụt ngân sách của chính phủ Mỹ đã tạo ra kênh tái đầu tư USD cho Trung Quốc, Nhật Bản, .... 

Chính phủ Mỹ bán tổng cộng hơn 7.300 tỷ USD trái phiếu cho nước ngoài, không hạn chế dòng chảy của vốn. Trung Quốc và Nhật Bản là hai chủ nợ lớn nhất.

Trung Quốc hiện nay đang kiểm soát vốn rất chặt chẽ, vừa để thực thi chính sách tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu, vừa hạn chế sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.

Mỗi người Trung Quốc chỉ được phép mua tối đa 50.000 USD một năm. Khách du lịch mang từ 5.000 USD trở lên phải khai báo với hải quan. Một phần mục đích của chính sách này là ngăn cản quan chức tham nhũng tuồn tài sản thu lợi bất chính ra nước ngoài.

Người Trung Quốc không được phép tự do đầu tư ở nước ngoài, và người nước ngoài cũng gặp nhiều hạn chế khi đầu tư vào thị trường tài chính Trung Quốc.

Bắc Kinh không muốn các thế lực bên ngoài kiểm soát các doanh nghiệp quan trọng trong nước, cũng không muốn khối ngoại nắm giữ quá nhiều trái phiếu chính phủ Trung Quốc nhằm tránh nguy cơ nước ngoài bán tháo và dòng vốn rút chạy khi xảy ra biến cố.

Người cầm nhân dân tệ hiện nay có khá ít sự lựa chọn ngoài việc dùng để thanh toán cho hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Quy mô thị trường cổ phiếu và trái phiếu của Trung Quốc hiện đều thấp hơn Mỹ, nhưng cho dù ngày mai Trung Quốc đột ngột vượt lên trên Mỹ thì cũng không có ý nghĩa nhiều với nhà đầu tư nước ngoài do các biện pháp kiểm soát vốn của Bắc Kinh.

Nếu muốn nhân dân tệ trở thành đồng tiền dự trữ toàn cầu, Trung Quốc sẽ phải tháo dỡ các rào cản về vốn. Hiện chưa có dấu hiệu gì cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng từ bỏ các biện pháp kiểm soát đã được áp dụng từ hàng chục năm qua.

Mỹ có thị trường trái phiếu lớn nhất thế giới, đáp ứng nhu cầu đầu tư bằng USD của nước ngoài.

Song Ngọc - Đức Quyền