Luật An ninh mạng đã được chỉnh sửa thế nào?
Phiên thảo luận về dự thảo Luật An ninh mạng đầu kỳ họp này. |
Theo tài liệu đã được công bố trên Trung tâm báo chí của kỳ họp, dự thảo luật gồm 7 chương 43 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2019.
Trung tâm báo chí cũng đăng tải báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. Báo cáo này sẽ được trình bày trước khi Quốc hội bấm nút.
Báo cáo cho biết, dự thảo luật trình Quốc hội thông qua đã được chỉnh sửa nhiều điểm so với bản được Quốc hội thảo luận tại đầu kỳ họp.
Cụ thể, điiều 10 đã quy định những nội dung cơ bản về hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia và giao Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục cụ thể là bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông tin và bảo đảm thống nhất với quy định của Luật An toàn thông tin mạng. Trong quá trình tiếp thu ý kiến đai biểu, Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý các khoản của diều 10 cho rõ ràng, chặt chẽ hơn.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo Tổng Thư ký Quốc hội gửi phiếu lấy ý kiến các vị đại biểu Quốc hội đối với điều 10 của dự thảo luật trình Quốc hội thông qua, kết quả số phiếu thu về là 437 phiếu, trong đó có: 392 phiếu đồng ý (chiếm 89,7%); 41 phiếu không đồng ý (chiếm 9,38%); 4 phiếu ý kiến khác (chiếm 0,92%).
Google, Facebook mở trung tâm dữ liệu là hoàn toàn khả thi
Một trong những nội dung được dư luận đặc biệt quan tâm những ngày qua là quy định về bảo đảm an toàn thông tin trên không gian mạng tại điều 26.
Điểm d khoản 2 điều 26 tại dự thảo luật trình Quốc hội đầu kỳ họp quy định, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng hoặc sở hữu hệ thống thông tin tại Việt Nam phải: lưu trữ tại Việt Nam đối với thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam và các dữ liệu quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia; đặt trụ sở hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Báo cáo tiếp thu giải trình cho biết, khi thảo luận tại Quốc hội, một số ý kiến còn băn khoăn với quy định tại điểm d khoản 2, vì cho rằng quy định này không bảo đảm tính khả thi, làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp nước ngoài, gây khó khăn cho các hoạt động tiếp cận thông tin và trái với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho biết nội dung này đã giải trình tại báo cáo ngày 22/5, nay báo cáo bổ sung làm rõ thêm tính khả thi của quy định này.
Đó là, các Hiệp định cơ bản của WTO (Hiệp định GATT, Hiệp định GATS) và Hiệp định CPTPP đều có điều khoản ngoại lệ về an ninh. Do đó, việc Việt Nam áp dụng các điều khoản ngoại lệ về an ninh trong luật này là hết sức cần thiết để bảo vệ lợi ích của người dân và an ninh quốc gia. Theo đó, Việt Nam có quyền yêu cầu các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam phải lưu trữ tại Việt Nam đối với dữ liệu quan trọng của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam, bao gồm dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra; đồng thời, yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài tham gia các hoạt động này phải đặt trụ sở hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Đến nay, đã có hơn 18 quốc gia thành viên của WTO (trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Úc, Đức, Pháp) quy định bắt buộc phải lưu trữ dữ liệu trong lãnh thổ quốc gia, báo cáo nêu rõ.
Theo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì hiện nay, Google và Facebook đang lưu trữ dữ liệu của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam tại trung tâm dữ liệu đặt tại Hồng Kông và Singgapore. Nếu quy định của luật này có hiệu lực thì các doanh nghiệp này phải dịch chuyển đám mây điện toán (máy chủ ảo) về Việt Nam để mở trung tâm dữ liệu tại Việt Nam là hoàn toàn khả thi.
Trường hợp trung tâm dữ liệu được đặt ở Việt Nam tuy có gia tăng thêm chi phí của doanh nghiệp, nhưng là quy định cần thiết phải đáp ứng yêu cầu về an ninh mạng của nước ta. Với quy định này, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nước ngoài cũng như hoạt động sử dụng dịch vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước cũng sẽ có những điểm thuận lợi nhất định; nếu gặp sự cố gián đoạn sẽ được xử lý nhanh hơn; cơ quan chức năng sẽ quản lý tốt hơn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này; khi có hành vi xâm phạm an ninh mạng, việc phối hợp xử lý thông tin và hành vi vi phạm sẽ hiệu quả và khả thi hơn.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng cho biết, căn cứ quy định của luật này và tình hình thực tiễn, Chính phủ quy định phạm vi doanh nghiệp cụ thể phải áp dụng quy định này, nên sẽ cơ bản không gây cản trở lưu thông dòng chảy dữ liệu, không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp khởi nghiệp.
Chỉ lưu trữ trong thời gian nhất định
Vẫn liên quan đến điều 26, báo cáo thẩm tra cho biết, có ý kiến đề nghị thu hẹp và cụ thể hóa các loại dữ liệu cần lưu trữ tại Việt Nam để phù hợp với quy định khoản 2 điều 14 của Hiến pháp. Ý kiến khác đề nghị phân loại thông tin thành 3 cấp độ để lựa chọn loại thông tin cần lưu trữ cho rõ ràng ngay trong dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, để bảo đảm rõ ràng, minh bạch và phù hợp với tinh thần của Hiến pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo lược bỏ quy định lưu trữ dữ liệu quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia. Đồng thời, cụ thể hóa các loại dữ liệu quan trọng của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam cần phải lưu trữ.
Ông Việt khẳng định, việc chỉnh lý như dự thảo luật cũng phù hợp với cấp độ 2, cấp độ 3 như ý kiến đại biểu đã nêu. Bên cạnh đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung quy định việc lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam chỉ trong thời gian nhất định theo quy định của Chính phủ để tránh chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời bỏ điểm đ khoản 2 trong dự thảo Chính phủ trình để tránh bị lạm dụng.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Tổng thư ký Quốc hội gửi phiếu lấy ý kiến các vị đại biểu đối với điều 26 của dự thảo luật trình Quốc hội thông qua, kết quả như sau: số phiếu thu về là 437 phiếu, trong đó có: 358 phiếu đồng ý (chiếm 81,92%); 73 phiếu không đồng ý (chiếm 16,7%); 6 phiếu ý kiến khác (chiếm 1,38%).
Điều 26. Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng
1. Trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử hoặc chuyên trang trên mạng xã hội của cơ quan, tổ chức, cá nhân không được cung cấp, đăng tải, truyền đưa thông tin có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 của Luật này và các thông tin khác có nội dung xâm phạm an ninh quốc gia.
2. Doanh nghiệp trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có trách nhiệm sau đây:
a) Xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số; bảo mật thông tin, tài khoản của người dùng; cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng;
b) Ngăn chặn việc chia sẻ thông tin, xóa bỏ thông tin có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 của Luật này trên dịch vụ hoặc hệ thống thông tin do cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý chậm nhất là 24 giờ kể từ thời điểm có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông và lưu nhật ký hệ thống để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng trong thời gian theo quy định của Chính phủ;
c) Không cung cấp hoặc ngừng cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng cho tổ chức, cá nhân đăng tải trên không gian mạng thông tin có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 của Luật này khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông.
3. Doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ.
Doanh nghiệp nước ngoài quy định tại khoản này phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.
4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều này.