|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Kinh doanh

Facebook, Google, Microsoft nộp hơn 4.500 tỷ đồng tiền thuế tại Việt Nam từ năm 2018

20:18 | 07/06/2022
Chia sẻ
Tính từ năm 2018 tới hết tháng 4/2022, Facebook đã nộp tổng cộng 1.965 tỷ đồng, Google nộp 1.902 tỷ đồng còn Microsoft nộp 651 tỷ đồng.

Trong báo cáo vừa được Bộ Tài chính gửi các đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết từ 2018 đến hết tháng 4/2022, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới đã kê khai và nộp cho cơ quan thuế Việt Nam 5.111 tỷ đồng.

Trong số đó, Facebook, Google, Microsoft đã nộp hơn 4.500 tỷ đồng tiền thuế. Cụ thể, Facebook nộp 1.965 tỷ đồng, Goolge nộp 1.902 tỷ đồng và Microsoft nộp 651 tỷ đồng.

Theo Bộ Tài chính, hoạt động quản lý thu thuế đối với hàng hóa, nền tảng dịch vụ xuyên biên giới theo quy định hiện hành được thực hiện thông qua các tổ chức tại Việt Nam (thuế nộp thay nhà thầu nước ngoài) với số thu bình quân trên 1.100 tỷ đồng/năm.

Năm 2018 số tiền thuế thu từ hoạt động thương mại điện tử (TMĐT), dịch vụ số xuyên biên giới đạt 770 tỷ đồng, năm 2019 đạt 1.168 tỷ đồng, năm 2020 đạt 1.143 tỷ đồng, năm 2021 đạt 1.591 tỷ đồng và 4 tháng đầu năm 2022 đạt 437 tỷ đồng.

Facebook, Google và Microsoft đã nộp hơn 4.500 tỷ đồng tiền thuế từ năm 2018 tới hết tháng 4/2022. (Ảnh: Medium).

Về quản lý thu thuế đối với các tổ chức, cá nhân Việt Nam có thu nhập từ cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới, hoạt động kinh doanh TMĐT, tính đến hết tháng 4, cơ quan thuế đã thu được số tiền thu từ xử lý vi phạm, chống thất thu được khoảng 735 tỷ đồng.

Hiện nay, Việt Nam có 139 đơn vị chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, gồm 41 sàn TMĐT bán hàng, 98 sàn TMĐT cung cấp dịch vụ, 3 công ty đối tác của các nhà cung cấp nước ngoài được thay nhà cung cấp nước ngoài trả tiền cho các tổ chức, cá nhân có quan hệ giao dịch với các nhà cung cấp nước ngoài, tương ứng với số lượng khách hàng trung bình truy cập các sàn khoảng 3,5 triệu lượt khách/ngày.

Bộ Tài chính cho rằng những đặc trưng của nền kinh tế số và sự phát triển nhanh chóng của TMĐT tại Việt Nam đã đặt ra nhiều thách thức không nhỏ với công tác quản lý thuế.

Trong đó, khó khăn đầu tiên phải nhắc tới là khả năng quản lý đầy đủ các nguồn thu, đối tượng nộp thuế. Trong điều kiện nền kinh số, các tổ chức, cá nhân có thể tiến hành hoạt động kinh doanh xuyên biên giới mà không thuộc đối tượng đánh thuế của bất kỳ quốc gia nào theo nguyên tắc quản lý thuế truyền thống. Các quốc gia đều căn cứ trên sự hiện diện vật chất của người nộp thuế, trong khi doanh nghiệp, cá nhân có thể phân bổ thu nhập về địa điểm có lợi nhất về thuế theo quy định của từng nước.

Thứ hai là không xác định được căn cứ tính thuế. Trên môi trường số, các hoạt động kinh doanh có thể thực hiện thông qua website hiện diện ở một khu vực thị trường nào đó mà không cần sự hiện diện vật chất của người nộp thuế. Điển hình cho hoạt động này là quảng cáo trực tuyến và các hoạt động tương tác thông qua nền tảng các mạng xã hội.

Thứ ba là không phân biệt rõ loại thu nhập làm cơ sở đánh thuế. Trong nền kinh tế số, rất khó phân biệt một số loại thu nhập, đặc biệt là bản quyền, phí dịch vụ và lợi nhuận kinh doanh. Ví dụ điển hình là doanh thu liên quan đến phần mềm, sản phẩm nội dung thông tin số, các ứng dụng đăng tải trên mạng,… Rất khó để xác định số tiền chi trả cho bản quyền, phí dịch vụ hay lợi nhuận kinh doanh.

Ngoài ra, mô hình kinh tế chia sẻ cũng đặt ra nhiều khó khăn trong việc xác định ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng, nghĩa vụ khai thuế, ví dụ như việc xác định mô hình của Grab - là kinh doanh dịch vụ vận tải hay chỉ là cung cấp dịch vụ kết nối.

Thứ tư, khó kiểm soát giao dịch kinh doanh để quản lý đối tượng thu thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT. Do chủ thể kinh doanh TMĐT không cần đến cửa hàng, cửa hiệu theo cách truyền thống, các giao dịch hoàn toàn thực hiện bằng phương thức điện tử, máy chủ có thể đặt tại nước ngoài. Một đối tượng có thể có nhiều gian hàng trên một sàn giao dịch TMĐT và cùng lúc trên nhiều sàn giao dịch TMĐT, nhiều trang mạng xã hội.

Những phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất đa dạng như: Thanh toán qua ngân hàng, thanh toán điện tử, thanh toán ngang hàng (P2P), tiền điện tử… Ở Việt Nam, việc kiểm soát giao dịch TMĐT còn gặp khó khăn khi hệ thống thanh toán theo hình thức COD (trả tiền mặt khi giao hàng) được áp dụng phổ biến hơn các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Doanh Chính