Các ngân hàng lớn nhất Mỹ vượt qua bài sát hạch đầu tiên của Fed
Mặc dù các ngân hàng lớn, bao gồm cả JPMorgan Chase & Co và Bank of America Corp, sẽ phải chịu thiệt hại 383 tỷ USD trong khoản nợ xấu trong kịch bản nghiêm trọng nhất của Fed, mức vốn chất lượng cao của họ sẽ cao hơn đáng kể so với ngưỡng mà các nhà quản lý yêu cầu, và có sự cải thiện so với năm ngoái.
Theo kịch bản tồi tệ nhất trong cuộc sát hạch căng thẳng của Fed, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng gấp đôi lên 10%. Theo Fed, tổng số vốn chất lượng cao của các ngân hàng sẽ vẫn chiếm 9,2% trong số các tài sản có rủi ro. Điều này tốt hơn nhiều so với ngưỡng 4,5% mà các nhà quản lý yêu cầu, và có sự cải thiện so với tỷ lệ vốn cổ phần cấp 1 (CET1) là 8,4% được đánh giá năm ngoái.
Các nhà phân tích cho biết, Citigroup Inc. đạt điểm cao nhất trong bài kiểm tra căng thẳng của Fed. Cụ thể, theo kết quả kiểm tra của Fed, tỷ lệ CET1 tối thiểu của Citi trong trường hợp căng thẳng nhất ở mức cao nhất trong số các ngân hàng lớn của phố Wall, ở mức 9,7%. Tuy nhiên nó vẫn thấp hơn so với mức 10% theo đánh giá của bản thân Citi.
Đánh giá của Fed cũng cho thấy, 5 ngân hàng lớn khác là JPMorgan, Bank of America, Wells Fargo & Co, Goldman Sachs Group Inc và Morgan Stanley đều có tỷ lệ CET1 tối thiểu từ 8,4% đến 9,4%.
Trong số đó, Goldman Sachs là có kết quả tự đánh giá lạc quan nhất so với đánh giá của Fed khi mô hình của ngân hàng này cho biết tỷ lệ CET1 của nó ở mức 9,8%, cao hơn 1,4 điểm so với kết quả đánh giá của Fed. Kết quả tự đánh giá của Wells Fargo cũng cao hơn của Fed 0,8 điểm.
Ngược lại, kết quả tự đánh giá của JPMorgan và Bank of America tỏ ra khắt khe hơn nhiều so với phần đánh giá của Fed. Cụ thể tỷ lệ CET1 của 2 ngân hàng này tự đánh giá thấp hơn tương ứng là 1,3 điểm và 0,7 điểm so với đánh giá của Fed.
“Kết quả năm nay cho thấy rằng, ngay cả trong thời kỳ suy thoái nghiêm trọng, các ngân hàng lớn vẫn duy trì được mức vốn hóa cao”, Thống đốc Fed Jerome Powell - người điều hành các quy định về ngân hàng của Fed cho biết. “Điều này sẽ cho phép họ duy trì cho vay trong suốt chu kỳ kinh tế, và hỗ trợ các hộ gia đình và doanh nghiệp khi thời điểm khó khăn”.
Kết quả được công bố hôm thứ Năm là bài thi đầu tiên trong đợt sát hạch căng thẳng thường niên của Fed. Nó cho thấy liệu các ngân hàng có đáp ứng các yêu cầu tối thiểu theo phương pháp của Fed, bằng cách sử dụng các tài liệu mà các ngân hàng nộp.
Phần thứ hai của cuộc sát hạch, sẽ được công bố vào ngày thứ Tư tới, sẽ cho thấy liệu Fed có chấp thuận hoặc từ chối kế hoạch vốn của các ngân hàng. Hiện các ngân hàng vẫn có cơ hội gửi lại những kế hoạch này nếu họ thấy dự báo của mình lạc quan hơn nhiều so với Fed.
Fed đã đưa ra việc sát hạch này trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính nhằm đảm bảo sức khoẻ của ngành ngân hàng, trong đó khả năng cho vay của các ngân hàng được xem là vô cùng quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế.
Kể từ lần thử nghiệm đầu tiên được thực hiện trong năm 2009, các ngân hàng lớn đã chứng kiến những khoản lỗ chững lại, danh mục đầu tư cho vay cải thiện và lợi nhuận tăng lên. Các ngân hàng hiện đang trải qua kỳ sát hạch này cũng đã củng cố bảng cân đối kế toán bằng cách bổ sung hơn 750 tỷ USD vốn đầu tư.
Các ngân hàng và các nhà đầu tư của họ đang hy vọng những cải thiện này sẽ thúc đẩy Fed cho phép họ sử dụng nhiều vốn hơn để mua cổ phiếu và chia cổ tức, đặc biệt khi chính quyền của Trump đang tìm cách nới lỏng các quy định về tài chính.
Các nhà phân tích và các nhóm thương mại tại phố Wall nhanh chóng hoan nghênh kết quả mà Fed công bố, cho biết các nhà quản lý sẽ cảm thấy thoải mái khi nới lỏng những quy tắc cứng rắn được đưa ra từ cuộc khủng hoảng tài chính.
“Chúng tôi thấy kết quả kiểm tra căng thẳng hôm nay là hết sức tích cực với chính quyền của ông Trump vốn đang nỗ lực nới lỏng các quy định ngân hàng”, Jaret Seiberg - chuyên gia phân tích chính sách của Cowen & Co. cho biết.
Rob Nichols - Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của Hiệp hội Ngân hàng Mỹ cũng nói rằng, Fed nên xem xét một số khuyến nghị gần đây đã được đặt ra bởi Bộ Tài chính, bao gồm làm cho các bài kiểm tra căng thẳng hơn minh bạch và ít thường xuyên hơn.
“Từ nền tảng vững chắc này, giờ đây chúng ta nên tập trung vào những gì có thể làm để giúp các ngân hàng Mỹ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa”, ông nói.